Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện cổ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyện cổ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

TRUYỆN THẦN THOẠI VỀ GIÁNG SINH Ở STRASBURG


 

TRUYỆN THẦN THOẠI VỀ GIÁNG SINH Ở STRASBURG

Một câu chuyện dân gian Đức
Tác giả: J. Stirling Coyne

 

CHUYỆN TÌNH CỦA BÁ TƯỚC VÀ NÀNG TIÊN

 

Ngày xưa, gần thành phố cổ Strasburg bên dòng sông Rhine, có một bá tước trẻ tuổi và khôi ngô tên là Otto. Năm tháng trôi qua, ông vẫn sống độc thân, chưa từng để mắt đến những thiếu nữ xinh đẹp trong vùng. Vì lẽ đó, người ta gọi ông là “Trái Tim Sắt Đá.”

Vào một đêm Giáng Sinh, Bá tước Otto quyết định tổ chức một cuộc săn lớn trong khu rừng quanh lâu đài của mình. Ông cùng khách khứa và đoàn tùy tùng lên đường, tham gia vào cuộc săn ngày càng hăng hái. Cuộc săn đưa họ qua những lùm cây rậm rạp và những khu rừng hoang vu, đến nỗi cuối cùng Bá tước Otto lạc khỏi đoàn.

Ông tiếp tục cưỡi ngựa một mình cho đến khi đến một dòng suối trong vắt sủi bọt, được người dân xung quanh gọi là “Giếng Tiên.” Tại đây, Bá tước Otto xuống ngựa, cúi mình xuống dòng suối và rửa tay trong làn nước trong veo. Lạ thay, dù tiết trời giá rét, nước ở đây lại ấm áp và dịu dàng. Một luồng ấm áp vui tươi lan tỏa khắp người ông. Khi ông nhúng tay sâu hơn, ông cảm nhận bàn tay phải của mình như bị một bàn tay khác, nhỏ nhắn và mềm mại, nắm lấy. Bàn tay đó khẽ tuột chiếc nhẫn vàng mà ông luôn đeo trên tay. Và khi rút tay lên, chiếc nhẫn đã biến mất.

Quá kinh ngạc trước sự việc kỳ bí này, Bá tước Otto lên ngựa trở về lâu đài, quyết tâm sáng hôm sau sẽ sai gia nhân hút cạn nước Giếng Tiên.

Ông trở về phòng mình, nằm dài trên giường mà không thay đồ, cố gắng ngủ nhưng không sao yên giấc vì chuyện kỳ lạ vừa xảy ra.

Bỗng ông nghe thấy tiếng chó canh sủa dữ dội ngoài sân, tiếp theo là âm thanh của cây cầu kéo kêu cót két như thể đang được hạ xuống. Rồi ông nghe thấy tiếng chân nhỏ chạy trên cầu thang đá, và tiếp đó là tiếng bước chân nhẹ nhàng trong căn phòng bên cạnh phòng mình.

Bá tước Otto bật dậy, và ngay khi ông làm vậy, một khúc nhạc mê hoặc vang lên. Cánh cửa phòng ông bật mở. Chạy sang phòng bên, ông thấy vô số sinh vật thần tiên nhỏ nhắn mặc trang phục rực rỡ lấp lánh. Họ không để ý đến ông mà bắt đầu khiêu vũ, cười nói và ca hát theo tiếng nhạc huyền diệu.

Giữa phòng là một cây thông Giáng Sinh lộng lẫy, cây đầu tiên từng xuất hiện ở vùng này. Thay vì đồ chơi và nến, trên các cành cây được thắp sáng treo đầy những ngôi sao kim cương, chuỗi ngọc trai, vòng tay vàng nạm đá quý, trâm cài đính hồng ngọc và ngọc bích, dây lưng lụa thêu ngọc trai phương Đông, và những con dao găm được bọc vàng, gắn đầy đá quý quý hiếm. Cây thông rực rỡ, lấp lánh và tỏa sáng dưới ánh đèn.

Bá tước Otto đứng lặng người trước cảnh tượng kỳ diệu, thì đột nhiên, các tiên nữ ngừng nhảy múa và dạt ra, nhường chỗ cho một người phụ nữ xinh đẹp lộng lẫy bước đến gần ông.

Nàng đội trên mái tóc đen huyền một chiếc vương miện vàng nạm ngọc. Tóc nàng xõa dài trên chiếc áo lụa hồng và nhung trắng. Nàng đưa đôi bàn tay trắng nhỏ nhắn về phía bá tước và cất giọng ngọt ngào quyến rũ:

“Thưa Bá tước Otto,” nàng nói, “ta đến để đáp lại lời mời Giáng Sinh của ngài. Ta là Ernestine, Nữ hoàng của các Tiên. Ta mang đến thứ mà ngài đã đánh mất ở Giếng Tiên.”

Nói rồi, nàng lấy ra từ ngực áo một chiếc hộp vàng nạm kim cương và đặt vào tay ông. Ông mở hộp ra đầy háo hức và thấy chiếc nhẫn vàng của mình bên trong.

Choáng ngợp bởi sự kỳ diệu, Bá tước Otto kéo nàng tiên Ernestine vào lòng, và nàng, nắm lấy tay ông, dẫn ông hòa vào vũ điệu huyền bí. Tiếng nhạc tiếp tục vang lên, và đoàn tiên nữ xoay tròn quanh họ rồi dần tan biến vào làn sương đa màu sắc, để lại bá tước và vị khách xinh đẹp một mình.

Quên đi sự lạnh lùng trước đây với các thiếu nữ trong vùng, Bá tước quỳ xuống và cầu xin nàng tiên làm vợ mình. Cuối cùng, nàng đồng ý với điều kiện ông không bao giờ được nhắc đến từ “chết” trước mặt nàng.

Ngày hôm sau, lễ cưới giữa Bá tước Otto và nữ hoàng tiên Ernestine được tổ chức linh đình, và họ sống hạnh phúc nhiều năm.

Nhưng một ngày nọ, khi bá tước và vợ tiên đang chuẩn bị đi săn trong rừng, nàng tiên Ernestine chậm trễ xuất hiện. Quá bực bội, bá tước thốt lên:

“Nàng làm chúng ta chờ lâu đến mức tưởng rằng  đi  liên lạc vói tử thần!”

Vừa nghe từ cấm kỵ, nàng tiên hét lên một tiếng đau đớn rồi biến mất. Bá tước Otto, chìm trong đau khổ và hối hận, lục tung cả lâu đài và Giếng Tiên, nhưng không bao giờ tìm lại được nàng. Dấu vết duy nhất còn lại của nàng là dấu tay nhỏ nhắn hằn sâu trên vòm đá của cổng lâu đài.

Nhiều năm trôi qua, nàng tiên Ernestine không trở lại. Mỗi đêm Giáng Sinh, bá tước đều dựng cây thông sáng đèn trong căn phòng mà ông đã gặp nàng lần đầu, mong nàng sẽ quay về, nhưng vô ích.

Thời gian trôi, bá tước qua đời. Lâu đài trở nên hoang tàn. Nhưng đến ngày nay, trên vòm đá của cánh cổng vẫn còn in dấu bàn tay nhỏ nhắn, minh chứng cho nguồn gốc của cây thông Giáng Sinh, theo lời kể của người dân Strasburg.

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2025

Truyện cổ tích dành cho thiếu nhi: MÓN QUÀ NĂM MỚI CỦA NÀNG TIÊN

 



MÓN QUÀ NĂM MỚI CỦA NÀNG TIÊN

 

Vào một ngày cuối năm, hai cậu bé đang chơi đùa thì bỗng nhiên một Nàng Tiên xuất hiện trước mặt họ và nói:
"Ta được cử đến để tặng các con món quà Năm Mới."

Nàng đưa cho mỗi đứa một gói quà, và trong chớp mắt, nàng biến mất.

Ca và Phi mở gói quà ra và thấy bên trong là hai cuốn sách tuyệt đẹp, với những trang giấy trắng tinh khiết như tuyết mới rơi.

Một năm sắp trôi qua, và Nàng Tiên lại đến gặp hai cậu bé.
"Ta mang đến cho mỗi con một cuốn sách khác," nàng nói, "và ta sẽ mang những cuốn đầu tiên trả lại cho Ngài Thời Gian, người đã gửi chúng cho các con."

"Con có thể giữ lại cuốn của mình thêm một chút nữa không?" Phi hỏi. "Gần đây con hầu như không nghĩ đến nó. Con muốn vẽ gì đó lên trang cuối đang mở."

"Không," Nàng Tiên nói; "Ta phải lấy nó y như ."

"Con ước gì có thể xem qua cuốn của mình chỉ một lần," Ca nói, "Con chỉ được nhìn một trang một lần, vì khi lật qua trang khác, nó dính chặt lại, và con không bao giờ có thể mở cuốn sách ở nhiều trang khác nhau trong cùng một ngày."

"Con sẽ được nhìn cuốn sách của mình," Nàng Tiên nói, "và Phi cũng thế." Và nàng thắp sáng cho họ hai chiếc đèn bạc nhỏ, nhờ ánh sáng ấy, họ thấy được các trang sách khi nàng lật qua.

Hai cậu bé kinh ngạc nhìn. Có thể nào đây là những cuốn sách đẹp nàng đã trao cho họ một năm trước? Những trang giấy trắng tinh, đẹp đẽ như tuyết mới rơi đâu rồi? Có một trang đầy những vết đen xấu xí và vết cào; trong khi ngay trang kế tiếp lại là một bức tranh nhỏ xinh xắn. Một số trang được trang trí bằng vàng bạc và những màu sắc rực rỡ, một số khác là những bông hoa tuyệt đẹp, và những trang khác nữa là một cầu vồng mềm mại, rực rỡ nhất. Thế nhưng ngay cả trên những trang đẹp nhất cũng có những vết mực và vết xước xấu xí.

Cuối cùng, Ca và Phi ngước lên nhìn Nàng Tiên.

"Ai đã làm điều này?" họ hỏi. "Mỗi trang giấy đều trắng tinh và đẹp đẽ khi chúng con mở ra; vậy mà giờ đây không còn chỗ trống nào trong cả cuốn sách!"

"Ta có thể giải thích một vài bức tranh cho các con không?" Nàng Tiên mỉm cười với hai cậu bé. "Nhìn này, Phi, chùm hoa hồng nở rộ trên trang này khi con nhường đồ chơi cho em bé; và con chim xinh đẹp này, trông như đang hót hết sức mình, sẽ không có trên trang này nếu con không cố gắng vui vẻ và thân thiện vào hôm đó, thay vì cãi nhau."

"Nhưng tại sao lại có vết mực này?" Phi hỏi.

Nàng Tiên buồn bã nói; "Vết mực đó đã xuất hiện khi con nói dối một ngày nọ, và đây là khi con không nghe lời mẹ. Tất cả những vết mực và vết cào xấu xí trong sách của các con đều xuất hiện khi các con không ngoan. Còn những điều xinh đẹp trong sách của các con hiện ra trên trang khi các con ngoan."

"Ôi, giá mà chúng con có thể giữ lại những cuốn sách đó!" Ca và Phi nói.

"Không thể được," Nàng Tiên nói. "Nhìn xem! Chúng đã được ghi tên số năm nay và giờ phải trả lại vào tủ sách của Ngài Thời Gian, nhưng ta đã mang cho mỗi con một cuốn mới. Có lẽ các con có thể làm chúng đẹp hơn những cuốn trước."

Nói rồi, nàng biến mất, và hai cậu bé ở lại, mỗi người cầm một cuốn sách mới mở ở trang đầu tiên.

Và trên bìa cuốn sách này có ghi những chữ mạ vàng: "Chúc Mừng Năm Mới."

 

***

Nguồn: http://faeriefae.50megs.com/the_fairys_new_year_gift.htm.

Hình minh họa của ChatGPT.

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2025

Truyện cổ Brazil: TẠI SAO KHỈ VẪN CÒN CÓ ĐUÔI




Truyện cổ Brazil

TẠI SAO KHỈ VẪN CÒN CÓ ĐUÔI

 

Ngày xửa ngày xưa, khỉ và thỏ lập một giao ước. Khỉ phải giết hết bướm và thỏ phải giết hết rắn.

Một ngày nọ, thỏ đang ngủ trưa thì khỉ đi ngang qua. Khỉ nảy ra ý muốn chơi khăm thỏ nên đã kéo tai thỏ, giả vờ rằng mình tưởng đó là bướm. Thỏ thức dậy rất tức giận khỉ và nó đã lên kế hoạch trả thù khỉ.

Thỏ và trút là đôi bạn rất tốt. Trút là loài rất khỏe, vì vậy   thỏ đã nhờ giúp đỡ.

Một ngày nọ, thỏ bắt gặp khỉ đang ngủ trưa sau một thời gian theo dõi và chờ đợi rất lâu. Thỏ gọi trút ngay lập tức và cùng nhau lăn một hòn đá lớn đè đuôi khỉ. Khỉ giật mình thức dậy, kéo mạnh để lấy đuôi ra khỏi tảng đá đến nỗi đuôi nó gãy mất. Mèo, lúc đó không có đuôi, đã nhìn thấy cái đuôi và cuổm nó chạy mất. Khỉ rất tức giận thỏ. "Ồ, chúng tôi nghĩ đó chỉ là một con rắn", Thỏ nói. "Khi bạn kéo tai tôi, bạn nghĩ chúng là bướm".

Lý do đó không giúp khỉ cảm thấy dễ chịu hơn. Làm sao nó có thể sống mà không có đuôi! Làm sao nó có thể leo trèo mà không có đuôi! Khỉ chỉ muốn có lại đuôi nên nó lập tức lên đường đi tìm mèo.

Cuối cùng nó tìm thấy mèo và nói, "Ôi, em mèo tốt bụng, làm ơn trả lại đuôi cho tôi".

"Tôi sẽ cho bạn", mèo trả lời, "nếu bạn lấy cho tôi một ít sữa".

"Tôi lấy sữa ở đâu?" khỉ hỏi.

"Đi hỏi bò đễ xin một ít", mèo trả lời.

Khỉ đến bên bò và nói, “Ôi, anh bò tốt bụng, làm ơn cho tôi ít sữa để tôi cho mèo uống, rồi mèo sẽ trả lại đuôi cho tôi.”

“Tôi sẽ cho anh sữa,” bò trả lời, “nếu anh lấy cho tôi ít cỏ.”

“Tôi lấy cỏ ở đâu?” khỉ hỏi.

“Hãy đi hỏi người nông dân,” bò trả lời.

Khỉ đến bên người nông dân và nói, “Ôi, bác nông dân tốt bụng, làm ơn cho tôi ít cỏ để tôi có thể lấy cỏ cho bò ăn, rồi bò sẽ cho tôi ít sữa, rồi tôi sẽ cho mèo uống, rồi mèo sẽ trả lại đuôi cho tôi.”

Người nông dân nói, “Tôi sẽ cho anh ít cỏ nếu anh cho tôi một ít mưa.”

“Tôi lấy mưa ở đâu?” khỉ hỏi.

“Hãy đi hỏi những đám mây,” người nông dân trả lời.

Khỉ đi tìm những đám mây và nói, “Ôi, những chị mây tốt bụng, hãy cho tôi một ít mưa để tôi có thể tặng mưa cho người nông dân để người nông dân cho tôi một ít cỏ để tôi tặng cỏ cho bò để bò cho tôi một ít sữa để tôi tặng sữa cho mèo để mèo trả lại đuôi cho tôi.”

“Tôi sẽ cho bạn một ít mưa,” những đám mây trả lời, “nếu bạn cho tôi một ít sương mù.”

“Tôi lấy sương mù ở đâu?” khỉ hỏi.

“Hãy đi hỏi những con sông,” những đám mây trả lời.

Con khỉ đi đến dòng sông và nói, “Ôi, chị sông tốt bụng, hãy cho tôi một ít sương mù để tôi có thể tặng sương mù cho mây để mây sẽ tặng một ít mưa để tôi tặng mưa cho người nông dân để người nông dân cho tôi một ít cỏ để tôi tặng bò để bò cho tôi một ít sữa để tôi tặng sữa cho mèo để mèo trả lại đuôi cho tôi.”

“Tôi sẽ cho bạn sương mù,” sông trả lời, “nếu bạn tìm được một dòng suối mới để nuôi tôi.”

“Tôi sẽ tìm thấy một dòng suối ở đâu?” khỉ hỏi.

“Hãy đi tìm suối giữa những tảng đá trên sườn đồi,” sông trả lời.

Sau đó, khỉ trèo lên sườn đồi và tìm giữa những tảng đá cho đến khi cuối cùng nó tìm thấy một dòng suối nhỏ để nuôi sông. Nó mang dòng suối đến dòng sông và dòng sông cho nó sương mù. Nó mang sương mù đến những đám mây và những đám mây cho nó mưa. Nó mang mưa đến cho người nông dân và người nông dân cho nó cỏ. Nó mang cỏ đến cho con bò và bò cho nó sữa. Nó mang sữa đến cho mèo và mèo trả lại cho nó cái đuôi.

Khỉ rất vui mừng khi lại có đuôi đến nỗi nó nhảy múa hát ca vì vui sướng. Kể từ thời điểm đó, khỉ rất cẩn thận để bảo vệ cái đuôi của mình, nhờ vậy, cho đến bây giờ khỉ vẫn còn có đuôi.  

 

Nguồn:

Why the Monkey Still Has a Tail

Elsie Spicer Eells, fairytalez.com/, January 22, 2015 

Tranh minh họa của GhatGPT

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2025

Truyện cổ Brazil: LÝ DO HỔ VÀ HƯƠU SỢ NHAU




Truyện cổ Brazil

LÝ DO HỔ VÀ HƯƠU SỢ NHAU

 

    Ngày xửa ngày xưa, trong rừng nọ có một con hươu đực to lớn đẹp trai sở hữu cặp sừng phân nhiều nhánh. Một ngày nọ, hươu tự bảo: “Ta mệt mỏi vì không có nhà cho riêng mình nên cứ sống rày đây mai đó. Ta sẽ xây cho ta một ngôi nhà." Hươu tìm trên mọi ngọn đồi, trong mọi thung lũng, bên dòng suối và dưới mọi tán cây để tìm một nơi thích hợp. Cuối cùng, nó tìm dược một nơi vừa phải: Không quá cao, cũng không quá thấp, không quá gần suối và không quá xa suối, không dưới tán cây quá rậm rạp và không ở nơi  nắng gắt. “Ta sẽ xây nhà ở đây,”  nó nói, và bắt đầu dọn chỗ ngay lập tức. Hươu làm việc cả ngày và không đi  đâu cho đến tối. 

    Vào thời gian ấy, tại chính khu rừng đó có một con hổ to lớn đẹp trai, với hàm răng sắc nhọn và đôi mắt sáng quắc, vẻ độc ác. Một ngày nọ, hổ tự bảo: “Ta mệt mỏi vì không có nhà của riêng mình, đành phải sống quanh quẩn ở bất cứ đâu! Ta sẽ xây cho  chính ta một ngôi nhà." Thế là hổ bắt đầu tìm kiếm một nơi để dựng ngôi nhà của mình. Hổ kiếm trên mọi ngọn đồi, trong mọi thung lũng, bên dòng suối và dưới mọi tán cây. Cuối cùng, hắn tìm thấy một nơi vừa phải. Không quá cao cũng không quá thấp, không quá gần và không quá xa một con suối, không dưới tán cây quá rậm rạp và cũng không xa những tán cây để phải ở ngoài nắng gắt. Hổ tự nhủ: “Ta sẽ xây nhà ở đây. Nơi này đã sẵn sàng cho ta vì ở đây không có nhiều bụi rậm." Hắn bắt đầu ngay lập tức và hoàn thành việc dọn dẹp nơi này sau một dêm. Đến khi trời sáng, hắn bỏ đi.  

    Vào ban ngày, hươu trở lại tiếp tục công việc cho ngôi nhà mới của mình. “Hừm,” nó nói khi nhìn vào bãi đất trống. “Ai đó đã giúp ta. Nơi này đã được giải phóng mặt bằng và sẵn sàng để ta xây dựng nền móng.” 

    Hươu bắt đầu ngay lập tức và làm việc cả ngày. Đến tối, khi đặt nền xong, nó bỏ di. 

    Vào ban đêm, hổ đến làm việc tại ngôi nhà mới của hắn. “Hừm,” hắn nói khi nhìn vào nền nhà. “Ai đó đã giúp ta. Nền móng của ngôi nhà đã được đặt xong.” Hổ bắt đầu làm việc và xây dựng các vách tường của ngôi nhà. Hắn làm việc cả đêm và bỏ đi lúc rạng sáng, để lại ngôi nhà với các vách tường đã hoàn thiện. Có một cửa lớn và một cửa sổ nhỏ ngộ nghĩnh ở bên cạnh. 

    Vào rạng sáng, hươu trở lại làm việc nhà của mình. Khi nhìn thấy các vách tường, nó dụi mắt vì nghĩ rằng mình đang mơ. Các mặt của ngôi nhà được hoàn thiện với một cửa lớn và một cửa sổ nhỏ ngộ nghĩnh. “Chắc chắn có ai đó đã giúp ta,” nó tự nói và bắt đầu làm việc để lợp mái nhà. Hươu làm việc quần quật cả ngày và đến khi mặt trời lặn, căn nhà lợp xong bằng cỏ khô. “Ta có thể ngủ trong nhà riêng của mình đêm nay,” nó nói, và sau đó, dọn giường trong góc và chẳng mấy chốc đã ngủ say. 

    Đến tối, hổ trở lại làm việc ở ngôi nhà mới của mình. Khi nhìn thấy nhà, hắn dụi mắt vì nghĩ rằng mình đang mơ. Căn nhà đã được lợp bằng cỏ khô. 

    “Chắc chắn có ai đó đã giúp ta,” hổ tự bảo khi bước vào cửa. Cảnh đầu tiên hắn nhìn thấy khi bước vào cửa là một con hươu sừng to đang ngủ say trên giường trong góc. "Mầy là ai và đang làm gì trong nhà của tao?" hắn xổ giọng trầm nhất của mình. 

    Hươu giật mình thức dậy. "Mầy là ai và đang làm gì trong nhà của tao?" hươu đực nói bằng giọng trầm nhất của mình. 

    “Đây không phải là nhà của mày. Đây là của tao. Tao đã tự mình xây dựng nó,” hổ nói. 

    “Đây là nhà của tao,” hươu nói. "Tao đã tự mình xây dựng nó." 

    “Tao đã phát quang và dọn dẹp khu đất,” hổ nói, “Tao xây tường các bên và làm cửa ra vào và cửa sổ.” 

    “Tao đã bắt đầu dọn dẹp khi đất còn hoang,” hươu nói. "Tao đặt nền móng và lợp mái nhà bằng cỏ khô." 

    Hươu đực và hổ cãi nhau suốt đêm, không ai chịu thua ai. Vào lúc bình minh, chúng quyết định rằng chúng sẽ sống cùng nhau ở đó. 

    Đêm hôm sau, hổ nói với hươu đực, “Tao sẽ đi săn. Mầy lấy nước và chuẩn bị sẵn củi để đốt lửa. Tao đói lắm khi trở về.” 

    Hươu đực đã chuẩn bị sẵn củi và nước.  Gần tối,  hổ quay lại. Hắn mang về nhà cho bữa tối xác một con hươu đực thật đẹp. Hươu đực không thèm ăn và đêm đó nó không ngủ giấc nào. 

    Ngày hôm sau, hươu đực nói rằng nó sẽ đi săn. Nó bảo hổ hãy chuẩn bị sẵn củi và nước khi nó quay lại. Hổ đã chuẩn bị sẵn củi và nước. Hươu đực quay trở lại, mang theo xác của một con hổ lớn. 

    “Ta gần như chết đói,” hươu nói. "Chúng ta hãy ăn tối ngay lập tức." Con hổ không thèm ăn và không ăn miếng nào. 

    Đêm đó cả hổ và hươu đực đều không thể ngủ giấc nào. Hổ sợ  hươu đực sẽ giết hắn nếu hắn nhắm mắt trong một phút, và hươu  sợ  hổ sẽ giết nó nếu nó ngủ hoặc thậm chí giả vờ ngủ. Do đó, nó tiếp tục tỉnh táo. 

    Vào buổi sáng,  hươu đã rất mỏi vì giữ nguyên một vị trí quá lâu. Nó khẽ lắc đầu. Khi làm vậy, sừng của nó đập vào nóc nhà.  gây ra một âm thanh khủng khiếp. Hổ nghĩ rằng hươu đực sắp chồm lên và giết chết hắn. Hắn nhảy vọt tới cánh cửa và chạy biến  ra khỏi nhà. Hắn chạy và chạy cho đến khi thật xa, thật xa căn nhà lợp bằng cỏ khô. 

    Hươu đực nghĩ rằng con hổ sắp chồm lên và giết chết nó. Nó cũng vọt cửa chạy vụt cho đến khi khuất xa, xa căn nhà lợp bằng cỏ khô. Hổ và hươu đực vẫn chạy trốn nhau cho đến tận ngày hôm nay. 

    Ngôi nhà mái cỏ khô nằm chờ ở nơi không quá cao cũng không quá thấp, không gần cũng không xa sông, không dưới tán cây quá rậm rạp, cũng không phải ngoài trời nắng gắt. Nó đợi và đợi cho đến khi mệt mỏi đến nỗi nó đổ xuống thành một đống.


&&&

 

(Hươu là loài ăn cỏ nhưng trong truyện này, tác giả cho rằng hươu có thể ăn thịt. Đó chỉ là hư cấu của tác giả để cho truyện thêm phần gay cấn. Thực ra, hươu cũng không ăn miếng thịt hổ nào. Nó chỉ mang xác con hổ về để dằn mặt hổ mà thôi.)

 

Nguồn:

Why the Tiger and the Stag Fear Each Other,

Elsie Spicer Eells, January 22, 2015, fairytalez.com.

Tranh minh họa của ChatGPT.

 

Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2024

Truyện cổ Việt Nam: Chú Cuội Cung Trăng - The Tale of Uncle Cuội and the Moon

 

Here is the illustration inspired by the folk tale "The Tale of Uncle Cuội and the Moon." It portrays Cuội holding onto the roots of the mystical tree as it ascends into the heavens under the glowing full moon. ChatGPT

    Chú Cuội Cung Trăng 

    Truyện cổ tích Chú Cuội Cung Trăng kể về chàng tiều phu nghèo tên Cuội. Trong một lần kiếm củi trong rừng anh khám phá được một thứ cây lạ. Cây này đã giúp một đàn cọp con hồi sinh. Chính Cuội đã thấy cọp mẹ nhai rồi mớm loại cây này cho những đứa con của mình, sau đó thì những chú cọp con này đã sống lại. 

    Trên đường đem cây về nhà, Cuội đã gặp phải một lão ăn mày nằm chết ở đường. Chợt nhớ ra mình có giống cây lạ, Cuội liền nhai và mớm cho cụ. Chẳng mấy chốc cụ đã sống lại. Khi biết được đầu đuôi câu chuyện, ông lão đã nói rằng đây là cây thuốc quý trời ban cho Cuội để cứu giúp đời. Ông còn dặn Cuội không được tưới nước bẩn lên nó, nếu không cây sẽ bay lên trời. Nhưng trong một lần quên lời chồng dặn, người vợ của Cuội đã tưới nước bẩn lên cây. Chẳng mấy chốc mặt đất chuyển động, cây bật rễ chuẩn bị bay lên. Đúng lúc đó, Cuội về, thấy cây quý của mình đang rời khỏi mặt đất, Cuội ôm lấy cây không buông rồi cùng nó bay lên cung trăng.


    The Tale of Uncle Cuội and the Moon

    The folk tale Uncle Cuội and the Moon tells the story of a poor woodcutter named Cuội. One day, while gathering firewood in the forest, he discovered a mysterious tree. This tree had the power to bring creatures back to life. Cuội witnessed a mother tiger chewing the leaves of the tree and feeding them to her cubs, who then miraculously came back to life.

    On his way home with the tree, Cuội encountered an old beggar who had died on the road. Remembering the miraculous tree, Cuội chewed its leaves and fed them to the old man. In no time, the old man came back to life. After learning about the miraculous tree, the old man explained that it was a divine gift given to Cuội to help save lives. He also warned Cuội never to water the tree with dirty water, as it would cause the tree to fly up to the heavens.

    However, one day, Cuội's wife forgot his warning and accidentally watered the tree with dirty water. Suddenly, the ground began to shake, and the tree started to uproot itself and ascend to the sky. At that moment, Cuội returned home and saw his precious tree leaving the earth. Desperate, he clung to the tree and refused to let go. As a result, both Cuội and the tree were carried up to the moon, where he has remained ever since.


Translated by OpenAI / ChatGPT

 

Truyện cổ Việt Nam: Sự Tích Dưa Hấu - The Legend of the Watermelon

  

Here is the illustration based on "The Legend of the Dưa Hấu (Watermelon)." It showcases the harmonious and triumphant moment of An Tiêm's family on the island, surrounded by watermelons and trade with sailors. ChatGPT


Vào đời Vua Hùng Vương thứ 18, nhà Vua có một cậu con trai nuôi tên là Mai Yển, hiệu là An Tiêm. Khi lớn lên, An Tiêm cưới vợ và được Vua tín dụng. Cậy nhờ có ơn Vua, An Tiêm cho rằng mình có thể tự gây dựng sự nghiệp mà không cần nhờ đến ai. Vô tình những lời nói này đã lọt đến tại Vua, cho rằng An Tiêm là kẻ kiêu ngạo, Vua bèn đày An Tiêm cùng vợ con ra một hòn đảo xa.

Khi bị đày ra đảo, vợ chồng họ cùng nhau khai hoang trồng trọt để kiếm sống. Bỗng một ngày có con chim từ phương Tây bay đến nhả một hạt đen gì đó xuống đất. Ít lâu sau, hạt nảy mầm và cho ra một loại quả vỏ xanh, ruột đỏ và rất nhiều nước. An Tiêm đặt tên cho nó là Dưa Hấu và đem trồng khắp nơi.

Một ngày nọ có chiếc tàu bị dạt vào cù lao, lúc này họ cũng gần cạn nước để uống. Thấy có trái lạ họ đã ăn thử và từ đó đua nhau đổi lấy thực phẩm cho gia đình của An Tiêm. Tin truyền đến Vua, ông đã cho người đón An Tiêm về và phục chức cho anh. Từ đó, anh phân phát hạt dưa và cho dân chúng trồng ở khắp nơi ở vùng đất cát để làm giàu cho quê hương.


The Legend of the Dưa Hấu (Watermelon)

During the reign of the 18th Hùng King, the King had an adopted son named Mai Yen, who was given the title An Tiêm. When An Tiêm grew up, he married and earned the King's favor. Confident in the King's grace, An Tiêm believed he could build his fortune without relying on anyone. Unknowingly, these words reached the King, who considered An Tiêm arrogant. As a result, the King banished An Tiêm with his wife and children to a remote island.

Once exiled, the couple worked together to clear the land and cultivate crops to survive. One day, a bird flew from the west and dropped a strange black seed onto the ground. Shortly after, the seed sprouted and bore a fruit with a green rind, red flesh, and plenty of water. An Tiêm named it Dưa Hấu (watermelon) and began planting it across the island.

One day, a ship drifted ashore on the island. At that time, the sailors were running low on drinking water. Seeing the strange fruit, they tried it, and from then on, they began trading food for An Tiêm’s watermelons. This news reached the King, who summoned An Tiêm back and reinstated his position. 

From then on, An Tiêm distributed watermelon seeds to the people, encouraging them to cultivate the fruit in sandy areas to enrich their homeland.

Translated by OpenAI / ChatGPT

 

Thứ Hai, 22 tháng 1, 2024

CHÓ RỪNG BỊ DÍNH THUỐC NHUỘM - Chuyện cổ Pakistan - Nguyễn Khắc Phước kể



 CHÓ RỪNG BỊ DÍNH THUỐC NHUỘM

Chuyện cổ Pakistan

Nguyễn Khắc Phước kể

 

Một con chó rừng bị rơi vào một chiếc bình lớn chứa đầy thuốc nhuộm  khi đang rình mò. Khi nó trở về nhà, tất cả bạn bè đều ngạc nhiên nói: 

“Mầy đã gặp chuyện gì vậy?” 

Nó cong đuôi trả lời: “Có thứ gì trên đời đẹp như tao không? Nhìn tao này! Đừng ai gọi tao là ‘chó rừng’ nữa nhé.” 

“Vậy tụi tao phải gọi mày là gì?” các bạn nó hỏi. 

“Công, từ nay tụi bây gọi tao là Công,” chó rừng trả lời, vừa khệnh khạng đi lại vừa nhìn lên trời. 

“Nhưng một con công có thể xòe đuôi rất đẹp. Vậy mầy có thể xòe đuôi ra được không?” các bạn hỏi. 

“Ồ, không, tao không làm được,” chó rừng trả lời. 

Chúng tiếp tục: “Và một con công có thể phát ra tiếng kêu du dương rất hay. Mầy có thể tạo ra tiếng kêu du dương vậy được không?” 

“Cái đó thì tao cũng chịu luôn.” 

“Vậy nếu mầy không phải là chó rừng thì rõ ràng mầy cũng không phải là công,” đám bạn kết luận. 

Và chúng đuổi nó ra khỏi đàn.

 

 

Nguồn:

The Painted Jackal

Rev. Charles Swynnerton

https://fairytalez.com/

Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023

Truyện cổ tích: TẠI SAO MÈO LUÔN RỬA MẶT SAU KHI ĂN - Jean De Bosschère




Tại sao mèo luôn rửa mặt sau khi ăn

Tác giả: Jean De Bosschère

 

Ngày xưa, một con mèo bắt được một con chim sẻ, nó liếm môi chuẩn bị một bữa ăn ngon lành. Sau khi chơi với chim sẻ một lúc, như loài mèo thường làm, nó định ăn thì chim sẻ nói.

 

“Kính tâu Hoàng đế,” chim sẻ nói, “và tất cả gia đình của ngài, không bao giờ bắt đầu bữa ăn mà không tắm rửa sạch sẽ trước. Mọi người đều biết rằng đó là phong tục trong xã hội lịch sự.”

 

“Đúng đấy,” mèo trả lời, “ta sẽ làm như mèo Hoàng đế thường làm!” Nói rồi nó thả chim sẻ ra và bắt đầu rửa mặt. Cảm thấy tự do, chim sẻ bay đi và đậu an toàn trên cành cây ngoài tầm với.

 

“Thật uổng công uổng của,” mèo lẩm bẩm, “tại vì ta quá dễ dàng bị đánh lừa.”

 

Và kể từ đó, mèo luôn rửa mặt sau bữa ăn.

 

 


Sơ lược về tác giả

 

Jean de Bosschère (1878 – 1953), là tác giả và họa sĩ người Bỉ. Mặc dù được biết đến với những tiểu thuyết dành cho người lớn gây tranh cãi, ông cũng đã viết và vẽ minh họa cho tuyển tập truyện Bỉ, Beasts and Men: Folk Tales Collected in Flanders (Quái vật và Con người: Truyện dân gian được sưu tầm ở Flanders.)

 

Truyện dân gian và truyện cổ tích của ông là những truyện kỳ quái về động vật và con người dành cho mọi lứa tuổi.

 

Nguồn: https://fairytalez.com/

 

 

Why Cats Always Wash After Eating

Jean De Bosschère

 

Along time ago a cat caught a sparrow, and licked his lips in anticipation of the delight he would feel in devouring it. After playing with it for a time, as cats will, he was going to eat it, when the sparrow spoke to him.

 

“The Emperor’s cat,” said the sparrow, “and all his family, never begin a meal without washing themselves first. Everybody knows that such is the custom in polite society.”

 

“Really,” answered the cat, “well, I will do as the Emperor’s cat does!” And he let go the sparrow and began to wash his face. Feeling itself free, the sparrow flew away, and alighted safely on the branch of a tree well out of reach.

 

“It serves me right,” muttered the cat, “for being so easily taken in.”

 

And ever since that time cats have always washed themselves after their meals.

 

(https://fairytalez.com/)

 

Thứ Năm, 4 tháng 5, 2023

VỢ CHỒNG ANH NÔNG DÂN NẠNH NHAU VIỆC ĐÓNG CỬA - Truyện cổ Pakistan của Mục sư Charles Swynnerton


 







VỢ CHỒNG ANH NÔNG DÂN NẠNH NHAU VIỆC ĐÓNG CỬA 

Truyện cổ Pakistan

Nguyễn Khắc Phước kể.



Ngày xửa ngày xưa, có một cặp vợ chồng nông dân già và nghèo, sau khi làm xong công việc trong ngày và ăn bữa tối thanh đạm, họ ngồi bên đống lửa, thì giữa họ nảy sinh tranh cãi xem ai nên đóng cánh cửa đã bị một cơn gió thổi tung.

"Bà đóng cửa lại!" chồng nói.

"Ông đóng cửa đi!" vợ nói.

“Tôi sẽ không đóng cửa, và bà cũng không,” người chồng nói; "Nhưng ai nói lời đầu tiên thì người đó phải đóng cửa lại."

Đề nghị này khiến bà vợ vô cùng hài lòng, và thế là cặp vợ chồng già yên lặng đi ngủ.

Vào nửa đêm, họ nghe thấy một tiếng động, nhìn ra ngoài, họ thấy một con chó hoang lẻn vào phòng rồi lùng sục trong chạn để tìm thức ăn vốn rất ít ỏi của họ. Tuy nhiên, cả hai đều không thốt ra lời nào, Và con chó, sau khi đánh hơi tìm kiếm và đánh chén no nê, rồi đi ra khỏi nhà.

Sáng hôm sau, bà vợ mang thóc sang nhà hàng xóm để xay thành bột.

Khi vợ vắng mặt, một người thợ cắt tóc dạo đi ngang trước nhà và được ông chông đưa tay ra hiệu biểu vào hớt. Vừa bước vào, người thơ hỏi: “Sao bác lại ngồi đây một mình thế?”

Người nông dân chẳng nói chằng rằng. Người thợ hớt tóc cạo đầu ông ta, nhưng ông vẫn không nói; Tiếp theo, anh cạo một nửa bộ râu và một nửa ria mép, nhưng người chủ nhà vẫn không thốt ra một tiếng nào. Sau đó, anh phủ lên khắp người ông một lớp sơn đen như muội đèn trông gớm ghiếc, nhưng người nông dân vẫn im như thóc.

“Ông này bị bùa mê rồi!” người thợ cắt tóc kêu lên, và anh ta vội vã ra khỏi nhà.

Anh ta vừa đi khỏi thì người vợ trở về. Thấy chồng có bộ dạng quá kỳ cục, bà bắt đầu run rẩy và thốt lên: “Trời ơi! Khốn kiếp, ông làm cái quái gì vậy?”

“Bà đã nói lời đầu tiên rồi nhé,” người nông dân nói, “vậy bà hãy đi đóng cửa lại.”


***

Nguồn: The Farmer, His Wife and the Open Door

Tác giả: Charles Swynnerton (1843-1923), Mục sư tuyên úy tại Ấn Độ.

Đăng trên Fairytalez.com





&&&

Tóm tắt tiểu sử tác giả:


Mục sư Charles Swynnerton (1843-1923) là Tuyên úy cao cấp ở Ấn Độ dưới thời Anh quốc đô hộ, là tác giả của hai cuốn sách về văn hóa dân gian. Một tuyển tập truyện dành cho trẻ em “Đêm Ấn Độ -Truyện Giải trí hoặc Truyện Dân gian ở Bắc Ấn” (Indian nights' entertainment, or, Folk-tales from the Upper Indus). Ông cũng là tác giả của “Những Chuyện Lãng Mạn từ Punjab” (Romantic tales from the Punjab).


Mục sư Swynnerton đã dành nhiều năm để thu thập truyện cổ dân gian từ văn hóa Ấn Độ bằng cách thường ngồi bên đống lửa, lắng nghe người bản địa kể chuyện


Thứ Tư, 20 tháng 7, 2022

Truyện cổ Ukraina: CÔ GÁI VÀ NGƯỜI MẸ ĐỘC ÁC - Tác giả: A. H. Wratislaw

 


Truyện cổ Ukraina 

CÔ GÁI VÀ NGƯỜI MẸ ĐỘC ÁC 

Tác giả: A. H. Wratislaw

 

     Trong rừng nọ có một túp lều tranh. Trong đó có một cặp vợ chồng già rồi nhưng họ không có con. Họ đi hành hương để cầu xin Chúa ban cho họ một đứa con. Chúa cho họ sinh một cô con gái. Cô ấy càng lớn lên càng xinh đẹp. 

     Một hôm, hoàng tử cưỡi ngựa đi săn, khi thấy một túp lều trong rừng, anh sai thị vệ tới đó xin nước. Thị vệ tới khi đứa trẻ đang khóc, và thấy những viên ngọc trai đang lăn từ mắt nó xuống. Được mẹ dỗ dành, nó bắt mỉm cười. Ngay khi nó mở miệng cười, nhiều loài hoa nở quanh nó. Người hầu đi ra và nói: ‘Thưa hoàng tử, hạ quan đã thấy một bé gái; khi nó khóc, ngọc trai lăn xuống; và khi nó cười, muôn hoa đều nở rộ.” Hoàng tử đi vào túp lều và bắt đầu trêu chọc đứa trẻ khiến nó khóc. Khi bé gái khóc, những viên ngọc trai lăn xuống. Sau đó, hoàng tử biểu mẹ nó dỗ dành nó. Khi nó mỉm cười, hoàng tử thấy muôn loài hoa nở rộ. 

     Cô gái tiếp tục lớn lên, và hoàng tử luôn đi đường đó khi đi săn. Khi cô ấy đã lớn, hoàng tử nói với bà mẹ cô gái: “Bà hãy gả con gái cho ta làm vợ.” Lúc đó, nàng đang thêu khăn tay có hình đại bàng. 

     Nhưng hoàng đế nói: “Hỡi con trai của ta, trí khôn của ngươi đã đi đâu rồi, mà con lại muốn lấy một cô gái nông dân làm vợ? Khi hoàng tử trình nhà vua cái khăn tay mà cô ấy đã thêu, hoàng đế vỗ tay: “Cưới đi,” ông nói, “Con ơi, cưới đi!” 

     Sau đó anh ta đưa cô về triều, mang theo cả mẹ cô ấy nữa. Khi họ đang trên đường đi, hoàng tử dừng lại để săn bắn. Nhân cơ hội ấy, bà lão lấy tất cả mọi thứ trên mình con gái, lấy cả cặp mắt cô rồi đẩy cô vào một cái hang sau khi mặc quần áo khác cho cô để hoàng tử không nhận ra cô nữa. 

     Quanh hang có vô số bụi rậm. Một ông già đến lấy củi phát hiện một cô gái đang ngồi trong hang, và trước mặt cô là một đống ngọc, cô đã khóc khi ngồi đó, nhưng cô ấy không có mắt. Cô gái nói: “Hỡi ông già tốt bụng, hãy nhặt đồ trang sức ở đây và đưa tôi đi.” Ông già nhặt hết đồ trang sức và dẫn cô ấy về nhà ông. Nhà ông già không có trẻ con, nhưng có một bà già. 

     Cô ấy nói với ông già: “Hãy bỏ đồ trang sức trong một chiếc túi, và mang chúng đến thị trấn để bán; và nếu gặp một bà già nào đó hỏi mua thì đừng lấy tiền bà mà hãy nói: "Bà có cái gì thì đưa cho tôi." 

     Ông già mang ngọc trai ra thị trấn và gặp một bà già. Bà lão nói: “Bán cho tôi đồ trang sức!” “Bà cứ mua.” “Bao nhiêu tiền?” “Bà có vật gì thì đưa vật đó.” Bà đưa cho ông một con mắt. Ông mang mắt về cho cô gái. Sau đó cô bắt đầu thêu một chiếc khăn tay bằng một con mắt. Một lần nữa, ông già mang đồ trang sức đến thị trấn. Bà lão lại nói: “Bán cho ta đồ trang sức!” “Mua đi.” “Bao nhiêu tiền?” “Bà có cái gì thì đưa đây.” 

     Bà đưa cho ông con mắt còn lại và ông mang mắt về cho cô gái. Sau đó, bằng hai mắt, người thợ thêu bắt đầu thêu những chiếc khăn đẹp hơn. 

     Ông già nói: “Có một dạ tiệc ở cung đình.” Cô gái nói: “Ông già tốt bụng, hãy đến bữa tối ấy, mang theo một cái bình, để ông có thể xin một ít súp cho tôi.” 

     Cô buộc một chiếc khăn tay do chính cô thêu trên cổ của ông già. Khi hoàng tử thấy chiếc khăn tay trên cổ ông già, anh ta kêu lên: “Ông già, ông từ đâu đến?” “Từ trang trại gần rừng kia, thưa hoàng tử; và có một cô gái sống ở nhà tôi, vậy làm ơn cho cô ta thứ gì đó vào cái bình này. ''Nhưng, ông già, ông lấy chiếc khăn tay đó ở đâu vậy?''  “Cô ấy đã thêu nó.” Hoàng tử ngay lập tức nhận ra cô gái nhờ tấm khăn thêu: “Đúng là cô ấy!” 

     Sau đó Hoàng tử cho người mang cô gái ấy về để chăn lợn. 

     Câu chuyện chỉ có thế.

 

&&&

 

Sơ lược về tác giả 

Albert Henry Wratislaw (5 tháng 11 năm 1822 - 3 tháng 11 năm 1892) là một giáo sĩ người Anh và học giả Slavonic người gốc Séc. 

 Ông chuyên nghiên cứu văn học Xla-vơ (Slavic literature)(1), là tác giả cuốn sách truyện dân gian Slav “Sáu mươi câu chuyện dân gian từ các nguồn Slavonic độc quyền” vào năm 1889. Cuốn sách bằng tiếng Anh là một tập hợp các câu chuyện cổ tích và truyện dân gian từ nhiều vùng khác nhau. Bản thân Wratislaw cho biết: Những câu chuyện này được dịch từ ngôn ngữ của cư dân Slavonic của gần 3/4 người Bohemia (2), người Séc. 

Vào kỳ nghỉ dài năm 1849, ông đến thăm Bohemia và học tiếng Séc ở Praha. 

Sixty Folk-Tales được dịch từ các ngôn ngữ Slavonic là bộ sưu tập đầu tiên và duy nhất của ông về văn học dân gian Slav, và được xuất bản chỉ hai năm trước khi ông qua đời. 

&&& 

(1) Ngữ tộc Slav là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn-Âu, xuất phát từ Đông Âu. Nhóm này bao gồm vào khoảng 20 ngôn ngữ và tập trung tại Đông Âu và Nga. (Theo: vi.wikipedia.org.) 

(2) Bohemia hay Čechy (tiếng Séc: Čechy; tiếng Đức: Böhmen, tiếng Ba Lan: Czechy) là một khu vực lịch sử nằm tại Trung Âu, chiếm hai phần ba diện tích của nước Cộng hòa Séc ngày nay.  (Theo: vi.wikipedia.org.)

Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2021

BÀI KIỂM TRA KỲ LẠ

 

 

BÀI KIỂM TRA KỲ LẠ

 

Ngày xưa, ở ngoại ô một thành phố lớn ở Nhật Bản có một ngôi chùa cổ. Những cậu bé muốn học Phật pháp thường đến sống trong chùa từ khi còn nhỏ và học với sư trụ trì chùa đó.

 

Một ngày nọ, sư trụ trì ngôi chùa nhỏ này quyết định dạy cho các học trò nhỏ của mình một bài học. Ông tập hợp học trò quanh mình và nói, "Các học trò thân mến của thầy, như các con thấy, thầy đang già đi và chậm chạp,  không còn đủ sức để phục vụ Phật sự trong chùa như trước đây nữa. Thầy chưa dạy các trò phải làm việc để kiếm tiền, và vì vậy thầy nghĩ đến một việc có thể ngăn trường chúng ta đóng cửa."Các học mắt mở to ngạc nhiên..

 

"Thành phố gần chúng ta có rất nhiều những người giàu có với ví tiền đầy ắp không biết làm gì cho hết . Thầy muốn các con vào thành phố và theo chân những người giàu có khi họ đi qua những con phố đông đúc hoặc khi họ đi xuống những con hẻm vắng vẻ. Khi không ai nhìn, và chỉ khi không ai nhìn, các con phải lấy trộm ví của họ. Bằng cách đó, chúng ta sẽ có đủ tiền để duy trì trường học của mình."

 

"Nhưng thưa Thầy," các cậu bé hoài nghi đồng thanh lên tiếng:  "Thầy đã dạy chúng con rằng lấy bất cứ thứ gì không thuộc về mình đều là phạm tội."

 

"Vâng, quả thực là ta có dạy," vị sư già đáp. "Ăn trộm thứ  mình không thực sự cần thiết là điều sai trái. Và hãy nhớ rằng, không được để ai nhìn thấy! Nếu ai có thể nhìn thấy con, con không được ăn trộm! Các con hiểu không?"

 

Các cậu bé lo lắng nhìn từ người này sang người khác. Thầy yêu quý của họ đã nổi điên hay sao? Đôi mắt ông ánh lên vẻ cương quyết chưa từng thấy trước đây. "Vâng, thưa Thầy," học trò lí nhí đáp.

 

"Tốt," nhà sư nói. "Bây giờ bắt đầu đi, và nhớ rằng không được  để ai nhìn thấy!"

 

Các cậu bé đứng dậy và lặng lẽ bắt đầu ra khỏi chùa. Vị sư già chậm rãi đứng dậy và nhìn họ đi.

 

Khi quay vào trong, ông thấy một học sinh vẫn đang đứng lặng lẽ trong góc phòng. "Tại sao con không đi cùng các bạn khác?" ông hỏi cậu bé. "Con không muốn giúp ta cứu chùa sao?"

 

“Con muốn chứ, thưa Thầy,” cậu bé nói khẽ. "Nhưng Thầy nói rằng chúng con phải ăn cắp mà không bị nhìn thấy. Con biết rằng không có nơi nào trên thế gian mà con  không bị nhìn thấy, vì con luôn nhìn thấy chính mình."

 

"Xuất sắc!" Thầy giáo kêu lên. "Đó chỉ là bài học mà ta hy vọng các học trò của mình sẽ học được, nhưng con là người duy nhất lĩnh hội được. Hãy chạy đi và biểu các bạn quay lại chùa trước khi chúng ta gặp rắc rối."

 

Cậu bé chạy đi và tìm thấy những người bạn đang tụ tập nơi vừa khuất tầm nhìn của ngôi chùa. Họ đang lo lắng bàn luận với nhau xem phải làm gì. Khi các học trò  quay trở lại, Sư phụ nói với họ những lời cậu bé đã nói và tất cả học sinh đều hiểu bài học

 

(Dòng cuối tùy chọn: “Bất kể chúng ta làm gì, luôn có một phần của bản thân đang lặng lẽ quan sát và  biết điều đó đúng hay sai và có thể hướng dẫn chúng ta nếu chúng ta lắng nghe.)

 

https://www.uua.org/re/tapestry/children/tales/stories