Hiển thị các bài đăng có nhãn truyện ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn truyện ngắn. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

NHƯ CHƯA HỀ ĐOÀN TỤ - Truyện ngắn

 

Truyện ngắn

NHƯ CHƯA HỀ ĐOÀN TỤ

Nguyễn Khắc Phước

 

Buổi trưa ở thị trấn Prao, huyện Đông Giang. Trời nắng như đổ lửa nhưng học sinh đa phần là con em đồng bào Cơ-tu đi học về chẳng có em nào đội nón. Chúng tôi chỉ mất chừng năm phút để đi xe máy giáp vòng thị trấn, cuối cùng cũng kiếm được quán cơm duy nhất đói diện với một cơ quan nhà nước. Mặc dù đã vào giờ ăn trưa nhưng quán vắng ngắt. Trước quán có có một xe máy mang biển số Đà Nẵng của một người khách duy nhất đang ngồi ăn trong quán.  Tôi đưa tay chào để làm quen:

-Chào anh bạn từ Đà Nẵng nhé. Chúng tôi cũng từ đó lên đây.

Vậy là chúng tôi bắt đầu chuyện trò vui vẻ.

Đức là một người thích du lịch bằng xe máy, ngày nay gọi là “đi phượt”. Một mỉnh một xe máy, anh đã đến rất nhiều nơi, từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Có lần anh sang Lào và vài nơi ớ Thái gần biên giới Lào.

Việc đi lại với anh có phần thuận lợi nhờ anh có bạn khắp nơi vi có một thời anh là tài xế xe tải, thưởng chở hàng hoá trong đó phần lớn là lốp xe của DRC - Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng đến các đại lý trong nước. Thế nhưng vì chuyện gia đình nên anh đã nghỉ việc gần mười năm nay.

Chuyện của Đức kể ở Prao chỉ đến đó khi chúng tôi rời quán ăn và Đức tiếp tục cuộc hành trình của anh.

Vài tháng sau, khi tôi được bạn mời vào họ nhà trai đến thị trấn Khâm Đức, huyện Phước Sơn để dự tiệc cưới và rước dâu về Đà Nẵng, tôi lại gặp Đức ở một quán cà phê. Tôi rủ Đức tối ở lại ngủ với tôi vì phòng còn dư một giường ở một khách sạn được trang bị khá cao cấp dành cho những tay buôn vàng và sâm Ngọc Linh.

Tối hôm đó, sau khi thử món thịt rừng với rượu ba kích, hai đặc sản của thị trấn miền núi này, chúng tôi về khách sạn và Đức kể tiếp câu chuyện của anh mà ở Prao chỉ mới khúc đầu.

Có một thời các thuỷ thủ ghé Nhật thường mua hàng nội địa cũ như máy giặt, máy điều hoà, máy cát-set mang về nước bán. Đức được thuê chở thứ hàng này nên anh ra vào cảng Đà Nẵng thường xuyên. Anh thường gặp Vĩnh là nhân viên thúế vụ ở đó. Hai người quen nhau rồi yêu nhau và tiến tới hôn nhân không mấy khó khăn vì cả hai đều có gia đình lâu đời ở trung tâm Đà Nẵng.

Cuộc sống tượng đối hạnh phúc, không thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần vi hai người chỉ có một cậụ con trai duy nhất.

Một ngày nọ, một bạn học cũ ở trường Phan Chu Trình mời Đức và hai bạn nữa vào TP HCM dự đám cưới của con trai anh ta. Một vài bạn cùng lớp khác cũng đến tham dự. Sau tiệc cưới, họ rủ nhau đến một quán nước để hàn huyên.

Đang ngồi cà phê, một bạn đứng dậy, bước nhanh ra đường và gọi một người phụ nữ đang đi ngang qua:

-Định, Định. Đức ở đây này.

Người phụ nữ kia quay lại và lớn tiếng mắng:

-Đừng có vớ vẩn nghe cha nội. Tui đâu phải Định mà kêu.

Đức bước ra xem chuyện gì và ngạc nhiên thấy chị kia giống vợ anh như đúc. Đức ôn tồn nói:

-Xin lỗi cô. Ông bạn của tôi nhầm cô với với vợ tôi vì hai người giống nhau như chị em sinh đôi vậy. Mong cô tha lỗi.

Người phụ nữ bớt giận và hỏi:

-Anh tử đâu đến?

-Từ Đà Nẵng.

-Tôi nghe mẹ nói tôi một người em sinh đôi ở Đà Nẵng đã mất liên lạc được từ 1972. Biết đâu vợ anh là em ruột của tôi.

Hai người nói chuyện một lúc và người phụ nữ kia mời anh đến nhà để mẹ chị gặp và trao đổi cho tường tận.

Đức xin địa chỉ và hứa ngày hôm sau sẽ đến vì hôm nay phải họp mặt với bạn bè mấy chục năm rồi mới gặp lại nhau.

Hôm sau, Đức tìm đến địa chỉ mà Vĩnh, người phụ nữ hôm qua gây lộn với bạn của anh, đã cho anh.

Tiếp anh là bà cụ đã trên 80 nhưng sức khoẻ còn khá tốt.

Mặc dù ở miền Nam mấy chục năm rồi, bà vẫn nói giọng Quảng Trị đặc sệt:

-Nghe con gái tui nói vợ chú ở Đà Nẵng giống hắn như tạc, mà hắn cũng có đứa chị sanh đôi mà năm 72 tui đã gởi người ta nuôi ngoài Đà Nẵng, từ đó đến chừ không liên lạc được vì mất tờ giấy ghi địa chỉ nhà cha mẹ nuôi.

Tay xách nách mang bốn đứa con chạy bộ từ Quảng Trị vào Huế. Bà và các con được một chiếc xe tải đưa từ Huế vào Đà Nẵng và cho bà và các con xuống tại trung tâm thành phố. Không nhớ chỗ đó là đâu. Đang lúc bơ vơ và đói lả, bà được một gia đình cho tá túc được vài ngày. Thời gian đó, có nhiều người cùng quê lang thang trên đường. Họ nói mấy trại tạm cư có phát gạo nên bà hỏi đường đến đó. Lúc rời nhà trọ, một trong hai bé sinh đôi, lúc đó mới hai tuổi, bị sốt nên ông bà chủ nhà trọ biểu để cháu ở lại để họ chăm sóc, ít bữa ổn định chỗ ở thì quay lại bồng cháu đi. Thế nhưng sau vài ngày ở trại tạm cư, có một chuyến xe duy nhất đến chở bà con đi kinh tế mới ở miền Nam, bà cùng ba con đành phải lên xe đi mà chưa kịp trở lại nhà trọ cũ để mang bé Định đi cùng.

Mọi chuyện đều như trên trời rớt xuống, Đức chẳng biết thực hư thế nào. Nếu thằng bạn của Đức không trông thấy Vĩnh thì không có chuyện rắc rối thế này.

Gia đình cha mẹ vợ của Đức là người gốc Đà Nẵng và gia đình anh cũng vậy. Vợ anh là người rất hiếu thảo, thường xuyên về nhà thăm cha mẹ ruột và bao giờ cũng mang theo quà biếu, không có dấu hiệu gì vợ anh là con nuôi.  Thế mà bây giờ lại xảy ra chuyện rắc rối, Đức không biết tính sao. Liệu anh có nên kể chuyện này với vợ và cha mẹ vợ?

Anh cảm thấy mình giống một nhân vật trong một truyện tương tự trong tập phim truyền hình Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly của nhà báo Thu Uyên. Anh vốn là một tài xế, thường có phản ứng nhanh để giải quyết sự việc, vậy nên anh hứa với bà mẹ của Vĩnh sẽ mang chuyện bà kể vể thưa lại với cha mẹ vợ, thử xem sự thật thế nào, vợ anh là con ruột hay con nuôi của cha mẹ vợ.

Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly kể về những cuộc sum họp gia đình rất cảm động, tưởng như chỉ có trong mơ, thế nhưng những gì xảy ra sau khi đoàn tụ thì mỗi gia đình mỗi cảnh, phim không bao giờ nói hết.

Về nhà, Đức vô tư kể lại chuyện trên cho vợ nghe. Sau đó, anh đến nhà cha mẹ vợ để hỏi chuyện ấy hư thực thế nào.

Đức được cha vợ dạy một bài học:

-Mầy là thằng ngu. Đang ăn yên ở yên, khi không mầy nghe chuyện tào lao ngoài đường lại cho là thực và đem về nhà thêm sinh chuyện. Giá như mầy im đi, chuyện đâu để đó, thì chẳng có chuyện gì rắc rối xảy ra. Ví dụ như mầy ra đường nghe ai đó nói thằng Tuấn không phải là con ruột của mầy, mầy có tin không? Rồi mầy nghe lời người ta tức tốc đi làm xét nghiệm ADN. Biết bao thằng làm như vậy nhưng chúng là những thằng ngu. Thằng khôn biết suy nghĩ thì không bao giờ làm vậy. Chăm sóc một đứa trẻ từ lọt lòng đến khi trưởng thành, biết bao nhiêu là công sức, của cải và tình yêu thương dành cho nó. Gia đình hạnh phúc, trên dưới thuận hoà.  Đùng một cái phát sinh chuyện xét nghiệm ADN, khiến gia đình tan nát. Kết quả nó là con ruột của mầy thì mầy cũng mất thằng con vì nó chẳng còn kính trọng mầy. Tình cảm vợ chồng mầy cũng sụp đổ vì mầy là kẻ tâm thần, đồng bóng, hoặc đang thực hiện âm mưu thâm độc bằng cách dựng chuyện để bôi nhọ danh dự gia đình. Nếu kết quả nó không phải là con ruột của mầy, vậy là công nuôi dưỡng của mầy bấy lâu thành công cốc. Công sinh sao bằng công dưỡng. Mầy mất một thằng con. Mầy biến một đứa trẻ có cha mẹ đàng hoàng thành đứa mồ côi. Có ác độc không? Có vô nhân đạo không? Mày chưa đến tuổi để ngộ ra rằng sinh ra một đứa trẻ là đưa một sinh linh vào vòng sinh lão bệnh tử. Nó phải tiêm đến 10 thứ  vắc-xin mới có thể sống sót. Rồi học hành, thi cử, kiếm công việc làm, thực ra là đi làm đầy tớ cho người ta chỉ để kiếm cái ăn, cái mặc, cái nhà … cũng giống như những sinh vật khác, thậm chí còn khổ hơn bởi những loài khác không có chiến tranh. Con ruột và con nuôi, chưa biết đứa nào có hiếu hơn đứa nào. Mầy không thấy hai đứa con ông Năm Giỏi nghe tin cha ốm tìm về, nhưng khi nghe nhà đã cầm cố để lấy tiền chửa bệnh cho cha thì hai đứa lặng lẽ bỏ đi.  Hoá ra chúng về chỉ  để chia gia tài. Ông Tám Khéo có một đứa con gái duy nhất lấy chồng ở nước ngoài, nay trên 80 rồi, mặc dù không thiếu thốn vật chất nhưng thiếu thốn tình cảm, thấy hai ông bà thui thủi, rất buồn. Nếu hồi trẻ ông bà xin một đứa con nuôi thì nay đã có người lui tới chăm sóc. Thế nên tao định khuyên vợ chồng bây nên xin một đứa con nuôi, gọi là làm phúc, làm phước để tạo nghiệp lành. Nuôi con gái càng tốt vì lớn lên mình gả chồng cho nó là hoàn thành nhiệm vụ.

 

Chuyện về vợ Đức có cô chị sinh đôi lắng xuống một thời gian  đến khi Tuấn, con trai của họ vào TP HCM dự thi vào đại học và vợ anh dẫn Tuấn đi, nhân tiện vào thăm bà mẹ và chị gái mà Đức đã đến thăm mấy năm trước.

Hai mẹ con trở về khi Tuấn thi xong. Vĩnh vui vẻ cho Đức biết là hai chị em đã đi xét nghiệm ADN và kết quả họ là chị em ruột. Đức dặn vợ phải giữ bí mật, không những không cho ông bà ngoại của Tuấn biết mà còn thường xuyên đến chăm sóc và tặng quà.

 

Tuấn đươc trúng tuyển vào Đại học Kiến trúc TP HCM và lên đường nhập học. Không lâu sau đó, Vĩnh nhắn tin Định vào gấp vì mẹ đau nặng, hai anh đã ở nhà riêng nên cần Vĩnh vào chăm sóc. Ngoài ra hai anh còn đồng ý để mẹ chuyển quyền thừa kế ngôi nhà cho Vĩnh để bù lại thời gian phải làm con nuôi.

 

Vĩnh lặng lẽ đi Sài Gòn, không báo cho cha mẹ, bây giờ là cha mẹ nuôi, biết vì sợ họ buồn. Thực ra, ông bà không buồn lắm, cho rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ.

 

Vì mẹ bị tai biến và nằm liệt giường nên Định phải túc trực ngày đêm. Đức không đi Sài Gòn được vì một mình quản lý cửa hàng xe đạp và phải thường xuyên đến thăm và tặng quà cha mẹ nuôi của vợ, nói dối là quà của vợ gởi biếu ông bà ngoại.

Đức và Định dần dần thưa điện thoại hoặc nhắn tin cho nhau vì Định không cầm máy. Tuấn ra trường và kiếm việc ở Sài Gòn nên không về nhà. Trong thời kỳ dịch Covid 19, Tuấn nhắn tin bà ngoại đã mất ở bệnh viện, mẹ nó nhận được hủ tro cốt mà người ta nói là của bà ngoại.

  

Đức một mình ở nhà. Thỉnh thoảng đóng cửa hàng để đi phượt bằng xe máy. Thời gian thấm thoát đã gần mười năm vợ chồng anh không gặp nhau.

 

Được hỏi tại sao Định có thể quên gia đình cha mẹ nuôi và chồng dễ dàng như vậy, Đức nói có lẽ ở nhà cha mẹ nuôi, vợ anh cảm nhận được mình là con nuôi và quen với lối sống tử tế ngoài mặt mà xa cách trong lòng. Đến bây giờ, anh mới nhận ra vợ anh chỉ làm cho xong phận sự của một người vợ, người mẹ chứ không tích cực hay sốt sắng vào bất cứ việc gì. Trong lòng Vĩnh có lẽ chỉ ấp ủ một thứ mà thôi, đó là ước mơ có ngày được đoàn tụ với gia đình ruột thịt.

 

Được hỏi Đức có định tái giá hay quan hệ tình cảm với ai nữa không, anh dứt khoát nói không. Anh hài hước thêm:

-Mình đã yêu và cưới một phụ nữ yêu mình, có lý lịch và nguồn gốc rõ ràng, hoá ra họ chẳng yêu mình và lý lịch chắp vá. Mình chỉ cưới được cái xác chứ không cưới được cái hồn, ôm đươc cái thân chứ không ôm được cái tâm. Nếu không có Eva và con rắn thì Adam vẫn thong dong vui chơi trong vườn địa đàng chứ đâu phải xuống trái đất để lao động khổ cực và chưa ai nói hai người đó được ly thân. Còn mình được Thượng đế cho ly thân với Eva và đưa mình trở lại thiên đường rồi, không dại gì mà quay trở lại bể khổ trần gian ấy nữa. Chuyện của mình chưa có hồi kết nên nếu Thu Uyên đưa lên phim thì phải đặt tên là: Như Chưa Hề Có Cuộc Đoàn Tụ.

 

 

 

 

 

 

 


Thứ Hai, 26 tháng 9, 2022

NGƯỜI BẠN CŨ - Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước



NGƯỜI BẠN CŨ 

Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước 

 

Nếu không có buổi họp chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường thì tôi đã không có dịp gặp lại Khoa, người bạn cùng lớp, sau 40 năm cách mặt. 

Khoa ngồi cùng bàn với tôi từ những năm đệ nhất cấp sang đệ nhị cấp, sau đó, khi rời Quảng Trị vào Huế, mỗi thằng học mỗi trường, nó học luật, tôi học sư phạm, ở cư xá khác nhau. Phần tôi vì sợ quân dịch nên túi bụi lo chuyện học hành, thỉnh thoảng mới gặp nhau ở quán cà phê đường Trương Định, chỗ sinh viên thường hay lui tới. 

Khi tôi đến dự buổi hội trường thì không biết Khoa đang có mặt ở đó. Nó ngồi đối diện với tôi nhưng tôi không nhận ra. Chỉ khi anh đại diện ban liên lạc giới thiệu, chúng tôi mới ồ lên ngạc nhiên rồi tay bắt, mặt mừng. Sau buổi họp, tôi mời Khoa ra quán nước để tâm sự cho thỏa. 

Hồi trung học, nó không những là bạn thân của tôi mà còn định làm em rể của tôi bởi nó léng phéng tán tỉnh Thúy - cô em gái của tôi. Nó thường la cà đến nhà tôi, giả bộ trao đổi chuyện học hành với tôi, nhưng thực ra chỉ để gặp Thúy và tặng thơ tình mà nó hầu như luôn để sẵn trong túi. Thúy thường cho tôi đọc thơ của nó, nhưng vì tế nhị, tôi không bao giờ kể gì với Khoa, với lại, tôi cho đó là việc của trẻ con, không cần quan tâm. Tuy nhiên, tôi không phải là thằng tốt đẹp gì nên thường tỏ ra có quyền hành với nó, thế nhưng nó luôn tử tế với tôi. 

Mấy năm ở đại học, vì quá bận học hành nên tôi không biết hai đứa nó có còn liên lạc với nhau không. Nếu hai đứa nó đến được với nhau thì tôi cũng mừng vì Khoa có đến hai giấy hoãn dịch, một vì lý do gia cảnh vì nó là con trai độc nhất, một vì lý do học tập. Tôi mà rớt thì phải ra chiến trường, còn nó rớt thì chẳng hề hấn gì, vẫn tiếp tục học thoải mái. Thế nhưng khi tôi sắp hết năm thứ hai thì Thúy buồn bã bỏ ăn mấy ngày, hỏi ra thì Khoa đã bỏ lên rừng theo Mặt trận, chỉ để lại cho Thúy ít dòng. Hồi đó, chuyện sinh viên bỏ lên rừng theo cách mạng là chuyện thường, không ai ngạc nhiên. Riêng Khoa thì hơi ngạc nhiên vì chưa bao giờ nghe nó nói chuyện chính trị, chỉ biết làm thơ tình. Với lại, nó chẳng tham gia hoạt đông tranh đấu của sinh viên như viết báo hay ứng cử vào ban đại diện sinh viên. Và ba nó, vì một chân có tật, phải đi khập khiễng, nên bên nào cũng chê. Nếu tôi phải đi lính,  e rằng có lúc hai thằng chúng tôi đã bắn vào nhau trên chiến trường. 

Mọi chuyện đều đi vào quên lãng trong cái vòng xoáy của thời cuộc. Thời buổi chiến tranh, chỉ lo cái thân nay còn mai mất, hòa bình thì lo miếng cơm manh áo, nên trong suốt mấy chục năm, thú thật, tôi quên phéng nó. Quên cũng là may cho nó bởi nó đã khiến em gái tôi phải ốm tương tư một thời gian dài. Chỉ một hai năm gần đây, nhờ công nghệ thông tin nên các bạn cùng lớp lập một danh sách gởi về cho tôi, trong đó có tên Lê Chí Khoa kèm ghi chú: "Nghe nói ở miền Nam, không rõ địa chỉ." 

Bây giờ, thằng Khoa bằng xương bằng thịt với mái tóc muối tiêu dài kiểu nghệ sĩ đang ngồi trước mặt tôi bên bờ sông Thạch Hãn và kể về phần đời của nó mà tôi không hề biết tới. 

Khoa kể khi tổ chức đưa nó lên chiến khu (à, thì ra nó thuộc một tổ chức cơ sở hoạt động bí mật ở nội thành mà tôi không hay), sau một trận đánh, nó bị thương nhẹ, được đưa ra Hà Nội chữa bệnh và học tiếp, không phải luật mà là văn. Sau ngày giải phóng, tổ chức phân công Khoa về miền Tây, phụ trách báo chí. Trước khi đi, Khoa có về thăm nhà và thấy cha mẹ nó đang nuôi một bé trai lai, môi dày, da ngăm, nên nó khá bực tức. Bao năm đi đánh Mỹ bây giờ về nhà lại thấy trong nhà mình có thằng con của Mỹ, thật là trớ trêu. Nó thấy thằng bé cũng dễ thương nhưng lại sợ ảnh hưởng đến lý lịch trơn tru không dính dáng một chút gì đến chế độ cũ của mình, lại thuộc vào thành phần cơ bản, được chiếu cố. Khoa khuyên cha mẹ nên gởi thằng bé lại cho cô nhi viện, nơi cha mẹ nó tản cư đến tạm trú một thời gian, nhưng lúc đó, một vì phần cô nhi viện nơi nuôi thằng bé đã giải tán, một phần vì cha mẹ nó nhất quyết không chịu, nói: Bao năm ba mẹ không biết con sống chết thế nào, nên cố xin thằng bé về nuôi để sau này nhờ cậy nó, bây giờ để người khác nuôi, sao đành. Với lại, những người phụ trách cô nhi viện đã tin tưởng gởi gắm và mình lại chịu ơn họ nên không thể thất hứa. Mình đưa nó về nhà mình chớ nó đâu có tự đến. Mình không nuôi nó thì có người khác xin ngay. Hơn nữa, nó khỏe mạnh cùi cụi, dễ bảo, sai đâu chạy đó. học hành thông minh. 

Khoa đành khăn gói lên đường làm nhiệm vụ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình nếu chuyện này lộ ra. 

Chừng hơn mười năm sau, Khoa được tin Minh - thằng em nuôi của Khoa - được xuất cảnh theo diện con lai, và vài năm sau thì cha mẹ Khoa được xuất cảnh theo diện gia đình có con lai, sang sinh sống với Minh ở nước ngoài. 

Hôm cha mẹ Khoa vào Sài Gòn ở nhà người bà con để chuẩn bị lên máy bay, vợ chồng Khoa và hai con có đến thăm để tiễn đưa. Đó là lần Khoa gặp cha mẹ gần nhất và cũng là lần cuối. Chừng sáu năm sau khi cha mẹ Khoa ổn định chỗ ở và có thẻ xanh, vợ chồng Khoa và hai con được bảo lãnh xuất ngoại. Mặc dù đã làm thủ tục gấy tờ đầy đủ, nhưng đến phút chót, Khoa quyết đinh để vợ và hai con lên máy bay, còn Khoa ở lại một mình, nói lúc nào có điều kiện sẽ sang. Lý do mà Khoa không muốn đi là do trước đây Khoa đã lỡ khuyên cha mẹ đuổi Minh, mặc dù Minh không hề biết. Điều cha mẹ Khoa mong mỏi trước đây bây giờ trở thành hiện thực và Minh đúng là một người con có hiếu. "Nó là một thằng con nuôi lai nhưng tốt hơn nhiều thằng con ruột, trong đó có tao," Khoa nói. 

Hai lần Khoa cần sang Mỹ nhưng đi không được vì đều bận công tác, đó là lúc cha nó mất vì tuổi già, rồi không lâu sau, mẹ nó cũng theo ông. Rồi vì chờ quá lâu,vợ Khoa làm đơn ly dị và lấy chồng khác. Khoa không nói nhiều về chuyện vợ nó ly dị, có lẽ bởi đó là chuyện khó tránh của nhiều gia đình có hoàn cảnh tương tự và tôi cũng tế nhị không hỏi gì thêm. 

"Mấy năm làm việc bân rộn nên không biết buồn, nay về hưu, cảm thấy trống trải quá. Chợt nhớ quê hương, bà con, bạn bè nên bò về thăm," Khoa nói. 

"Tại sao mầy không sang sống với hai con cho sướng?" tôi hỏi. 

"Sướng cái con khỉ chùa cầu thì có! Mình không thạo tiếng người ta thì chỉ có ngồi nhà xem ti vi suốt ngày. Thì cũng được đi, nhưng oái oăm là thằng rể và con dâu tao đều là người bản xứ, cha chúng nó đều đã tham chiến tại Việt Nam và đều đã chết trận, ai cấm chúng nó nghĩ có thể bố vợ và bố chồng chúng nó đã từng bắn nhau với cha chúng?" Khoa nói. 

"Người ta đang kêu gọi bỏ qua quá khứ, cùng nhau hợp tác, hướng đến tương lai, còn mầy cứ khư khư ôm dĩ vãng nặng nề đó làm gì. Giả dụ như mày có đánh nhau với cha chúng nó cũng là chuyện thường tình của chiến tranh. Hơn nữa, thời gian mầy trực tiếp chiến đấu không lâu," tôi nói. 

"Biết vậy nhưng đó là chuyện quốc gia, còn riêng mình vẫn cảm thấy khó ở. Trong trường hợp của tao, vì cùng là thành viên của một gia đình cùng chung sống dưới một mái nhà nên cái tâm của mình không thể thoải mái được," Khoa nói. 

"Nghĩa là bây giờ mày sống tự do một mình bằng lương hưu, lâu lâu có các con tài trợ, phải không? Thỉnh thoảng giao du với em út? Vậy thì có tiên mới sướng hơn mầy, còn đòi gì nữa?" 

"Nhưng vẫn thường trực cô đơn và không biết làm gì cho hết thì giờ," Khoa nói, 

Khoa chuyển đề tài: "Cho tao gởi lời xin lỗi Thúy và cả mầy nữa, dù muộn." 

"Mầy có lỗi gì đâu. Bỏ một người để lo cho triệu người là chuyện chính đáng," tôi nịnh nó. 

"Mầy lên lớp chính trị thì thua tao dù mầy là giáo viên dạy văn. Bây giờ Thúy ra sao, đang ở đâu, gia đình thế nào?" Khoa hỏi. 

"Nó đang ở với con gái trên Đà Lạt. Chồng nó mất lâu rồi." 

"Tôi nghiệp Thúy! Thôi được, mầy cho tao địa chỉ của Thúy. Sau ngày hội trường, tao sẽ đi Đà Lạt."

 

18/4/2012

Nguyễn Khắc Phước

Thứ Ba, 25 tháng 2, 2020

MẸ VÀ CON - Truyện ngắn


MẸ VÀ CON

Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước



     Thấy tổ trưởng dân phố Mẹo đạp xe ngang qua quán cà phê, tôi kêu:
     - Bác tổ trưởng ơi, vào phê chút đã, đi đâu mà mấy bữa nay thấy vắng?
     - Có việc mới đi chớ. Tổ trưởng nói, vẻ quan trọng.
     - Thì đi họp hội bảo thọ là cùng chớ chi?
     - Không. Đi lên trên nữa để lo giấy tờ cho bà con. Ai cần gì thì tui giúp nấy, chỉ mong cho được việc của bà con là tui mừng.
     Hoá ra là tổ trưởng bấy lâu nay giúp bà con nhiều lắm lắm. Không biết gọi nghề của bác là gì, đại loại bác giúp bà con trong cũng như ngoài tổ những dịch vụ như cắt, chuyển, tách, nhập hộ khẩu, xin giấy phép xây dựng nhà, làm sổ đỏ sổ hồng, mua bán chuyển nhượng đất đai, vv và vv.

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2020

CÁI CUỘN CHỈ - Truyện ngắn






CÁI CUỘN CHỈ

Truyện ngắn

Nguyễn Khắc Phước


Thượng lưu sông Thác Ma là vùng nổi tiếng với đặc sản chè lá, thơm và mít, cung cấp cho các chợ vùng hạ lưu chuyên trồng lúa và những chợ vùng duyên hải Quảng Trị, Thừa Thiên. Thím Lành là một trong những người chuyên buôn bán những mặt hàng đó.

Thím Lành ở thôn Tân Điền, cách chợ Mỹ Chánh chừng hai giờ đi bộ, thế mà ngày nào thím cũng kiũ kịt gánh hàng xuống chợ. Thiệt tội cho đôi vai của thím và cả cái đòn gánh oằn xuống như sắp gãy. Cứ vài chục bước thím lại đổi vai, chứng tỏ gánh hàng nặng lắm, nặng đến mức tột cùng của sức chịu đựng, tưởng như một cái lá cũng không thêm vào được.

Suốt buổi chiều, thím đến các chủ vườn mua hàng. Khi vừa đủ nặng, thím gánh hàng về nhà. Từ ba giờ sáng, khi trời còn tối mờ tối mịt, thím đã tất tả gánh hàng xuống chợ để kịp bán cho bạn hàng. Có khi thím phải đi đến các thôn vùng núi phía tây như Trầm Sơn, Khe Mương, hoặc bắt đò qua các thôn Vực Kè, Tân Lương bên kia sông, nơi trồng nhiều thơm, mít.

Đấy là vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, khi đất nước còn yên bình. Người ta có thể đi suốt đêm, trong túi không có bất cứ giấy tờ gì mà không sợ bị bắn nhầm hay xét hỏi. Những năm đó, đêm đêm dưới sông Ô Lâu văng vẳng giọng hò mái đẩy nhịp nhàng khoan thai từ những chuyến đò dọc mang hàng hóa từ Đông Ba đi khắp vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, ghé những chợ bên sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu và đến tận sông Thạch Hãn, sông Hiếu… Nhiều người nghe đến thuộc những câu:

“Đập sông Bồ có khúc sâu khúc cạn

Chàng có thương thiếp, cho thiếp chộ hình chộ dạng để bớt nhớ thôi thương  

Kể từ ngày đào lựu cách trở hai phương  

Trông cho thấy mặt kẻo hai đứa hai đường thảm chưa?”

“Gió thổi pho pho đưa đò lên Huế

Trăng non Đoài vội xế Bao Vinh

Gặp nhau đây giữa ngã ba Sình

Có ai vô kết nghĩa chung tình ngàn năm?”….

Thím Lành quen biết rất nhiều giọng hò trên những chuyến đò dọc ấy bởi những chủ đò là bạn hàng của thím.

Mỗi khi xong phiên chợ, nếu hàng bán không hết, thím thường mang đến gởi nhà bác Thảo, một người bà con thúc bá bên chồng của thím. Bác Thảo làm nghề thợ may và mở tiệm ngay trong chợ Mỹ Chánh. Tiệm của bác khá rộng nên sẵn sàng cho thím gởi hàng. Hầu như bác Thảo không bao giờ phải tốn tiền mua chè lá và lâu lâu được thím tặng một trái thơm, trái mít ăn cho vui.

Thím Lành cũng mê hò Huế, nhất là hò giả gạo và hò đối đáp rất vui nhộn, nên mỗi năm đôi ba lượt, khi có đoàn hò Huế về hát ở sân đình làng Mỹ Chánh hoặc Lương Điền, thím gánh hàng xuống chợ ngay đêm hôm đó, ở lại nhà bác Thảo để đi xem cho được.

Một hôm, bác Thảo tìm không thấy một cuộn chỉ đen trong bao treo trên bàn máy may. Đó là trục chỉ còn nguyên, chưa dùng đến, bác phải bắt xe đò vô tận Huế mới mua được. Chỉ được cuốn quanh một cái lõi gỗ mà sau khi dùng hết chỉ, trẻ con thường dùng để làm xe để chơi. Bác lục trí nhớ xem hôm ấy có ai đến nhà mình không và dứt khoát chỉ có một mình thím Lành ghé lại. Bác chắc chắn thím Lành đã lấy cắp cuộn chỉ của mình chứ không ai khác, bởi vì nhà thím nghèo, rất cần chỉ để vá áo quần. Cả nhà thím, mọi người đều mặc áo vá. Cái áo dài thím mặc đi chợ cũng được vá vai.

Bác Thảo tức bực vô cùng, không lẽ lại phải vô Huế chỉ để mua một cuộn chỉ, mà đi lại đâu phải dễ dàng. Kể từ đó, mỗi lần thím Lành đến bác đều lạnh nhạt, không một tiếng chào, không nhận chè lá của thím biếu nữa.

Thím Lành không hiểu tại sao bác Thảo có thái độ khác thường như vậy, sợ rằng hàng hóa của mình làm chật nhà bác, từ đó thím không gởi hàng ở nhà bác và cũng không đến nhà bác nữa.

Thế rồi cuộc chiến càng ngày càng căng thẳng, không ai dám đi lại ngoài đường ban đêm, tiếng hò mái đẩy trên sông vắng dần rồi im bặt luôn. Con đường sắt trở thành giới tuyến. Phía tây thấp thoáng bóng các anh du kích khi đêm về. Ban đêm thím Lành và gia đình phải xuống hầm ngủ để tránh đạn đại bác và đạn súng đại liên từ đồn Mỹ Chánh cứ bắn xả vào làng.

Lâu lâu thím Lành mới xuống chợ, chỉ đi ban ngày và gánh ít hàng. Khi đò dọc không còn đến, khách hàng từ Huế ra mua bằng xe đò, nhưng chỉ được đôi lần rồi vắng luôn bởi đường sá không an toàn. Nhưng khó chịu nhất là khi vừa ra khỏi chợ, hàng hóa của thím bị lục tung, không biết họ kiếm cái gì.

Khi những chiếc máy bay phun cái chất bột màu trắng xuống làng thì mít là thứ cây đầu tiên bắt đầu chết rụi, kế đến là chè, thơm. Sau này thím mới biết rằng đó là thuốc khai quang và người ta nói cây nào có mủ thì chết trước.

Không còn chè, mít và thơm nên thím hết đường sinh kế, gia đình thím định bỏ làng mà đi. Thế nhưng chưa kịp đi thì một quả đại bác đã rơi vào vườn nhà thím và mảnh của nó đã giết thím.

Bác Thảo nghe tin nhưng không về phúng viếng. Có thể bác sợ nhưng không ai bắt bớ gì một người thợ may già như bác, hơn nữa, mấy anh du kích cũng là bà con thân thuộc với bác. Người ta nói nghĩa tử là nghĩa tận, mà bác còn ghét thím lâu vậy sao?

Mấy năm sau, một hôm bác đi ngang nhà hàng xóm khi chị chủ nhà đang ngồi ngoài hiên vá áo quần. Hồi ấy không có điện nên ngồi trong nhà thì không thấy lỗ kim mà xâu chỉ. Tình cờ bác thấy trên bậc thềm một cuộn chỉ đen loại có lõi gỗ y như của cuộn chỉ của bác. Cuộn chỉ còn khá mới, chưa dùng bao nhiêu. Những người không phải thợ may chỉ dùng cuộn chỉ nhỏ bằng ngón tay quấn quanh lõi giấy, hiếm khi người ta dùng loại cuộn chỉ to có lõi gỗ mà ở chợ Mỹ Chánh không ai bán. Bác hỏi chị hàng xóm mua cuộn chỉ này ở đâu, chị trả lời:

- Thằng con tôi đi chơi thấy đâu đó rồi mang về chớ tôi chẳng mua cuộn chỉ to này làm chi cho tốn nhiều tiền.

- Trước đây tôi có mất một cuộn chỉ như thế này và tôi đã nghi ngờ một người bà con lấy cắp. Chị làm ơn hỏi cháu lấy cuộn chỉ này ở đâu, nếu cháu lấy của tôi thì chị cho tôi biết, tôi sẽ bỏ qua không nói với bất cứ ai và chị cứ để đó mà dùng. Tôi biết các cháu rất thích lõi chỉ này để làm xe chơi chớ chẳng tham lam gì. Nếu cháu lấy thì tôi phải đến xin lỗi người bà con của tôi vì bấy lâu nay tôi nghi oan cho họ.

Tối hôm đó, chị sang nhà bác Thảo, một tay chị cầm cuộn chỉ, một tay cầm tay thằng con, biểu nó xin lỗi và trả lại cuộn chỉ cho bác.

Bác cầm cuộn chỉ mà rưng rưng nước mắt vì bác không bao giờ có thể gặp lại thím Lành để xin lỗi nữa, họa chăng là ở suối vàng mà thôi. 

N.K.P.

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019

NGƯỜI ĐÀN BÀ TUỔI DẦN - Truyện ngắn Nguyễn Khắc Phước





Nguyễn Khắc Phước
NGƯỜI ĐÀN BÀ TUỔI DẦN
Truyện ngắn

Tôi tên là Lê Thị Đảnh. Lúc đầu cha tôi làm khai sinh đặt tên Dần vì tôi tuổi Dần, nhưng mạ tôi không chịu, sợ sau khó lấy chồng, xin hộ tịch đổi lại tên Đảnh. Có lẽ Dần dễ sửa thành Đảnh, chớ lúc mới sinh, tôi có đỏng đảnh gì đâu. Thế nhưng tôi thích tên Dần hơn vì bọn con trai trong làng thường giễu tôi là “đỏng đảnh như mụ Cảnh n.l.”, bị tôi rượt chạy có cờ nhưng rồi chúng nó vẫn cứ nói câu bậy bạ đó.
Quê tôi miền Trung, có dòng sông nước bốn mùa trong vắt. Hồi tôi còn bé, hai bờ chưa bị xói lở như bây giờ. Mỗi xóm chọn một bãi tắm gần nhà. Chiều đến, nhất là vào mùa hè, dàn ông, đàn bà, già trẻ lớn bé đổ xuống bến tắm giặt. Mẩy ông lớn tuổi thoải mái cỡi truồng, hai tay bụm chỗ kín, tà tà lội xuống nước, cố tình lội ngang đám đàn bà và bắt chuyện: “Chiều ni nóng quá, mấy o hí?”
Mấy thằng cỡ 14, 15 bằng tuổi tôi lúc ấy chưa bao giờ mặc quần lúc tắm. Sáu Dư là đứa nghịch nhất bọn, thường bơi ngữa, mình chìm dưới nước, chỉ để lộ con chim trên mặt nước, tự gọi là tiềm thủy đỉnh. Đôi khi nó giả bộ bơi lộn sang đám con gái làm chúng tôi phải chạy tứ tán.  Có lần tôi vung tay qua lại nghịch nước, đụng phải vật gì đó, quay lại thấy Sáu Dư bụm chim chạy lên bờ, kêu đau quá đau quá rồi nằm lăn xuống cát. Tôi lên bờ, dựt tay hắn ra xem có sao không, hắn liền vùng dậy, vừa chạy vừa kêu: “Con Đảnh rờ chim tau, con Đảnh rờ chim tau, tụi bây ơi.” Đó là lần đầu tiên tôi dụng phải chim của Sáu Dư.
Sáu Dư cũng là thằng chuyên chơi trò tuột quần dây thun. Mỗi khi có nhóm bạn, đặc biệt khi có trai lẫn gái, lợi dụng lúc họ đang nói chuyện say sưa, hắn lén đến sau lưng một người, hai tay nắm hai bên hông quần, tuột xuống thật mạnh. Người bị tuột quần không bắt nó được vì hai tay phải nắm quần kéo lên. Sáu Dư thường bị rượt đuổi nhưng rồi hắn quay lại, nhe răng cười trừ.
Hết chiến tranh, tôi rời trại tạm cư về quê, lúc ấy đã là cô gái trên hai mươi. Tất cả ruộng tư đều sung vào hợp tác và tôi thành xã viên, bắt đầu học nhổ mạ, cấy lúa, gánh phân, làm cỏ. Sáng tinh mơ nghe kiểng là dậy, ăn vội mấy củ khoai hoặc sắn nấu sẵn từ đầu hôm, gói thêm mấy củ nữa dành cho bữa trưa, rồi tất tả ra đồng, tối mờ tối mịt mới rời ruộng, về đến nhà thì đã đỏ đèn. Bữa tối mới có chén cơm độn khoai sắn, chỉ vừa lưng bụng, nửa đêm thức giấc, đói thắt tha thắt thẻo, không ngủ được.
Trai gái trong làng cỡ tuổi tôi lần lượt lập gia đình, riêng tôi không ai ngó ngàng đến vì họ sợ tuổi Dần. Tôi ghét lão nào ngày xưa bắt con người cầm tinh con vật. Con người và con vật khác loài, mắc chi con người mang tuổi vật, vậy con vật mang tuổi gì? Trong khi đó, người và vật, theo nhà Phật, đều là chúng sinh như nhau. Cái thời con người và con vật sống bên nhau ấy đã xa lắc rồi. Thời đó, người còn ăn lông ở lỗ, cọp nhởn nhơ đầy rừng, sẵn sàng vồ người giết thịt, còn bây giờ, người ta giết cọp sạch trơn, chẳng thấy một con. Cọp thì không sợ, lại sợ người mang tuổi cọp. Vớ vẩn!
Sáu Dư lấy vợ, có hai con, trở thành đội trưởng đội sản xuất số 5, thường gọi là đội 5. Tên thôn, tên làng gần như bỏ hẵn, chỉ dùng tên đội. Tôi là đội viên của anh ta.
Bọn đàn ông ban ngày cày bừa, ban đêm tranh thủ cầm đèn đi soi, gặp con gì bắt con nấy, kể cả rắn độc. Riết rồi chẳng nghe thấy ếch, nhái, ểnh ương gì kêu hết trọi. Sau tối họp đội, họ thường đi soi tập thể, rồi tập trung tại một nhà ai đó làm mồi nhậu với rượu sắn, nói chuyện ba xàm tới quá khuya mới về. Còn bình thường, họ mang về nhà cho vợ con nấu cháo để được thêm chút đạm.
Tôi cấy chậm và thường ít điểm hơn người ta. Trong một buổi họp, đội cần một chân bảo vệ kho lúa ban đêm, hỏi ai cũng lắc đầu, tôi liền đưa tay xin nhận. Lúc đầu người ta nhìn tôi châm chọc nhưng cuối cùng phải nhận tôi vì trong đám thanh niên lúc ấy chỉ có tôi còn độc thân, những người còn lại đều đã có gia đình, ban đêm họ ôm nhau ngủ ấm, mắc chi phải ôm bao lúa cho lạnh.
Ban ngày tôi đi làm đồng, tối về ăn cơm xong, ôm mền lên kho lúa ngủ. Tôi dậy lúc sớm bửng khi dân làng còn ngủ, lén dấu mấy lon lúa lép trong mền, đem về cho vịt ăn.
Một sáng nọ, khi tôi vừa ra khỏi sân kho thì Sáu Dư xuất hiện, chỉ vào cái mền, ra lệnh: “Cái chi trong đó, bỏ ra coi.” Tôi lẹ tay hất cái mền, lúa lép bay tung tóe, và ngay lập tức, tôi cỡi quần nằm ngay xuống bãi cỏ, la lớn: “Dáu Dư hiếp tui, Sáu Dư hiếp tui, bà con ơi!” La lớn nhưng kho lúa cách nhà gần nhất cũng gần nửa cây số nên không ai nghe. Sáu Dư bỏ chạy mất dạng. Tôi bình tĩnh trở lại kho lúa, xúc lại mấy lon lúa lép, nếu không thì lấy gì cho vịt ăn!
Buổi họp đội sau đó chẳng thấy Sáu Dư nói gì về chuyện tôi ăn cắp lúa lép.
Sau buổi họp mấy đêm, lúc ấy đã khuya, tôi nghe có tiếng chân người ngoài sân, liền tằng hắng, cho biết mình đang thức. Có tiếng nói khẽ, đúng là giọng Sáu Dư. “Này này, lúa lép bữa nay có nhiều hạt chắc lắm nghe, sàng sảy ra mà dùng, đừng cho vịt ăn hết, uổng lắm.”
Tôi như mở cờ trong bụng, làm thinh, giả bộ không nghe, đoán biết hắn đã thấy cái gì hôm đó rồi, mà đã thấy thì không thể không thèm. Hắn cũng tuổi Dần như tôi, mà cọp thì thường trở lại bắt con mồi vồ trượt.
Chừng một tuần sau, cũng vào lúc nửa đêm, tôi nghe tiếng Sáu Dư thì thào: “Đảnh ơi!… Đảnh ơi!...” Tôi gắt giọng: “Ai đêm hôm khuya khoắt định đến ăn trộm lúa phải không? Đi đi, không tui đánh kiểng báo động xã viên tới bắt liền đó.” Sáu Dư nói: “Thôi mà, thôi mà! Sáu Dư đây. Tui báo công Đảnh làm tốt nên họ thưởng cho Đảnh tấm vải đây, mở cửa ra tui đưa cho.” “Có thiệt không?” “Thiệt chớ răng không.”
Tôi hé cửa và Sáu Dư lẻn vào. Trong bóng tối, hắn đưa cho tôi một gói giấy, tôi sờ và ngửi thì đúng là vải mới thật. Tôi nói: “Răng ban ngày ban mặt không đưa, mắc chi đêm hôm đi cho cực?” Sáu Dư nói: “Nói thiệt hôm trước chộ rồi, về khó ngủ quá, cứ tơ tưởng miết. Bữa ni cho chộ chút nữa được không?”
Đúng như tôi đoán, con cọp này trở lại tìm mồi lần nữa. Kiểu này thì không thể từ chối hắn được vì hắn đã bỏ qua tội tôi ăn cắp lúa lép, lại còn cho quà. Tôi ỡm ờ: “Tối thui thế ni mà chộ chi, để lúc khác được không?” Hắn nói: “Miễn răng tui chộ được thôi.”
Tôi để cho Sáu dư “chộ” thoải mái đến độ tôi không cịu được nữa, biểu hắn ngồi lên bao lúa giống trên đầu giường và tôi chồm lên. (Bởi cái giường tre tôi nằm quá ọp ẹp, không thể chịu đựng sức nặng của hai người.)
Mỗi tuần Sáu Dư đến với tôi hai, ba lần. Để cho an toàn nên anh ta ngủ với vợ rồi mới đi, nói ra đồng kiểm tra xem nước đã được trổ vào ruộng chưa hoặc đi đếm xem bao nhiêu bó mạ đã được nhổ tối nay. Vậy tôi chỉ hưởng chút xái tăng hai nên chẳng đâu vào đâu.
Chuyện vụng trộm ấy chẳng nhớ kéo dài được mấy tháng thì tai họa xảy đến. Một đêm hai đứa tôi mệt quá, ngủ đến sáng trợt, giật mình vùng dậy khi nghe tiếng đám đông bên ngoài sân kho. Thì ra vợ Sáu dư biết được, dẫn người đến vây kho lúa.
Sau vụ đó, Sáu Dư bị mất chức đội trưởng, bẽ mặt quá phải bỏ nhà ra đi. Còn tôi mất chân thủ kho, mất cả tư cách xã viên. May cho tôi là đàn vịt nhờ ăn lúa chắc đã phổng phao, bắt đầu đẻ trứng. Tiền bán trứng tôi dùng để gầy thêm một đàn vịt nữa. Chẳng bao lâu tôi trở thành một phụ nữ chăn vịt thả đồng chuyên nghiệp. Hằng ngày tôi lùa vịt ra đồng kiếm ăn, dẫn tới ao cho chúng tắm. Mùa hè tôi cắm trại luôn ngoài đồng, một phần để tránh mụ vợ Sáu Dư lâu lâu ngứa mồm lại đến nhà tôi chửi rủa.
Đàn bà mà dám ngủ một mình giữa đồng không mông quạnh bởi tôi biết đàn ông xứ này ớn con tuổi Dần này rồi, sợ đụng vào thì thân bại danh liệt, phải tha phương cầu thực như Sáu Dư, làm sao chịu nổi.
Những lần đi lại với Sáu Dư thực bụng tôi muốn tự túc một đứa con để sau này già mà cậy, thế nhưng rất tiếc tôi không mang bầu. Sau này tôi nghe chuyện phòng the của cánh phụ nữ mới nghiệm ra rằng một phần Sáu Dư đã trút hết cho vợ trước khi đến với tôi và một phần vì tư thế ngồi kiểu đó thì không có cái gì bơi đến nơi đến chốn.
Năm năm sau khi bỏ làng ra đi, Sáu Dư trở về với thân thể tiều tụy, nước da vàng tái mét. Nghe nói anh ta lên Tây Nguyên làm thuê cho bọn lâm tặc, vác cưa vào rừng trộm gỗ, nhiều lần bị kiểm lâm đuổi chạy. Kiểm lâm thì thoát được nhưng muổi thì chịu. Anh ta bị bệnh sốt rét, bị bọn lâm tặc đuổi việc, đành phải về quê. Tôi cảm thấy mình có lỗi, muốn tìm cách giúp đỡ nhưng không biết cách nào.
Sáu Dư về với vợ thấy êm ru, không hục hặc gì, lại còn được vợ bồi dưỡng nên sức khỏe ngày càng khá hơn. Ai cũng khen vợ Sáu Dư coi vậy mà chung thủy, rộng lượng, đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người chạy lại.
Rồi vợ Sáu Dư có bầu. Hôm chị ấy sắp ở cữ, ý tá xã đoán khó sinh nên chuyển lên bệnh viện tuyến huyện. Vào buổi chiều, tôi thấy Sáu Dư và một thanh niên khác cùng cáng chị ấy lên đường lộ để đón xe, theo sau là mẹ ruột của chị.
Chừng hai hôm sau, khi tôi đang ngủ trong lều giữa đồng thì có ai đó đập vào mông, giựt mình thức dậy thì tháy Sáu Dư ngồi bên cạnh.
“Ủa, răng không đi theo vợ mà ở nhà rứa?”
“Một người được rồi, nhiều người làm chi cho tốn,” Sáu Dư thở dài.
“Vậy tối nay thoải mái nhé?”
“Thôi thôi, chịu rồi,” Sáu Dư buồn bã lắc đầu.
“Thiệt không? Tui kiểm tra nhe?”
Tôi vật Sáu Dư ra để kiểm tra thì quả thực cái đó còn mềm hơn cả ngón tay thứ sáu không xương của anh.
“Răng lạ rứa?” tôi ngạc nhiên hỏi.
“Thời thanh niên chỉ khoai sắn mà phục vụ một lúc tới hai bà, sau đó vào rừng làm việc như trâu, ăn uống thiếu thốn, bữa đói bữa no, lại còn bị sốt rét, thử hỏi còn sức đâu mà ham,” Sáu Dư lại thở dài.
“Rứa anh mần răng mà chị có bầu?”
“Tối nào cũng ôm ấp nhưng không mần chi được nên nó phải đi kiếm người khác. Ông ăn chả, bà ăn nem, thôi đành im cho rồi. Tại mình cả thôi, bụng làm dạ chịu. Cũng không tệ lắm, it bữa nữa, tôi sẽ được phân thêm ruộng. Con ai đem bỏ chùa này…,” Sáu Dư cười chua chát.
“Chấp nhận như rứa là tốt. Tui có ít tiền đây, mai anh mang lên trả viện phí và thăm vợ con.”
“Mắc chi mà trả. Thằng cha nó sẽ trả viện phí,” Sáu Dư vùng vằng.
“Nói rứa mà nghe được à! Anh vừa mới mừng sắp được phân thêm ruộng răng chừ nói ngược rứa? Không lấy tiền này để trả viện phí thì ngày mai ở nhà giữ vịt, tui sẽ lên thăm chị ấy,” tôi làm bộ quả quyết.
NKP




Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2019

ĐÔI MÁT - Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước


ĐÔI MÁT

Truyện ngắn của  Nguyễn Khắc Phước



– Chị Mai biết ai đây không?

Có người nào đó bịt mắt tôi từ phía lưng và hỏi khi tôi đang ngắm tranh tại một phòng trưng bày gần chợ Đồng Xuân. Quay lại, hóa ra là Hạnh, cô bạn nhỏ ngày xưa học cùng trường và ở cùng xóm.

– Ồ Hạnh, em đi du lịch theo đoàn nào?

– Em đi một mình và ở đây gần ba tháng rồi. Đang ngồi buồn mà gặp chị thì may quá. Để em đóng cửa phòng tranh rồi chị em mình vừa đi dạo vừa nói chuyện.

– Em quản lý phòng tranh này?

– Dạ.

– Khoan đã, em thuyết minh cho chị hiểu về mấy bức tranh này, được không?

– Tất cả những bức sơn dầu này là tranh của họa sĩ Hoàng và,  như chị thấy, chủ đề là phụ nữ khỏa thân. Nhưng không chỉ có vậy.  Tranh này dùng kỹ thuật ảo thị giác, tiếng Anh gọi là optical illusion, mới nhìn chỉ thấy một tranh nhưng nhìn kỹ sẽ thấy một tranh khác, nói nôm na là 2 trong 1. Nhìn thẳng thì tranh này là một thiểu nữ tuổi đôi mươi căng đầy nhựa sống nhưng chỉ cần nghiêng đầu về bên phải một chút sẽ thấy một bà lão tám mươi má hóp da nhăn. Họa sĩ muốn diễn tả cái gì thì chắc chị cũng hiểu.

– Sắc đẹp thân thể của phụ nữ chóng phai tàn?

– Dạ, có lẽ vậy. Chỉ cần một giây để quay đầu thì một đời người xem như đã qua. Chị hãy nhìn bức tranh bằng cách quay đầu qua lại nhiều lần và tự cảm nhận cái chóng vánh của một kiếp người, sinh trụ dị diệt chỉ trong một giây. Nói chung, họa sĩ muốn diễn tả ý niệm vô thường, vạn pháp luôn luôn biến đổi, không một vật gì có thể tồn tại lâu hơn một sát na. Em tóm tắt ý của họa sĩ  chứ em cũng chỉ nghĩ như chị mà thôi.

– Tranh của họa sĩ Hoàng có lẽ rất kén người mua bởi người ta thích ngắm người đẹp chứ mấy ai muốn ngắm bà già?

– Vậy mà có một nhà sưu tập từ Thái Lan đã đặt cọc một tấm rồi, chị ạ.

– Cuộc đời họa sĩ có liên quan gì đến những bức tranh này không?

– Chúng ta đi kiếm quán phở, vừa ăn vừa nói chuyện chị nhé?

<><> 

Hạnh tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật và hiện đang dạy môn mỹ thuật bậc trung học ở Đà Nẵng. Đã trên 40 tuổi nhưng cô vẫn chưa có gia đình và thường lên mạng để kết bạn, trong đó có một họa sĩ tên Hoàng. Một hôm có một phụ nữ tên Minh, tự giới thiệu là  người Hà Nội đang dạy tại một trường đại học ở Đà Nẵng, đến nhà và hỏi Hạnh có quen họa sĩ Hoàng ở Hà Nội qua mạng không. Hạnh nói có. Minh nói Hoàng là người bà con và nhờ chị liên lạc trực tiếp với Hạnh để mời Hạnh ra Hà Nội quản lý gallery của anh một thời gian bởi Hoàng biết Hạnh có đôi chút kiến thức về hội họa và nói được tiếng Anh. Gallery này trước đó do vợ anh quản lý. Hạnh hứa sẽ giúp anh chỉ trong kỳ nghỉ hè và đó là lý do Hạnh có mặt tại Hà Nội đã gần ba tháng nay.

Lâu lâu Hoàng đến phòng tranh và tâm sự với Hạnh. Anh kể về lần đầu tiên anh gặp Liên, vợ anh. Hồi đó, sau khi tốt nghiệp cấp 3, trong một chuyến về quê thăm ông bà nội, anh thường ra sông câu cá và thấy một cô gái chiều chiều ngồi giặt áo trên bến bên kia sông. Nhìn từ xa, Hoàng biết cô ấy rất duyên dáng, dịu hiền. Khúc sông đó không có cầu nên Hoàng bắt đầu tập bơi. Trong vòng hai tuần thì Hoàng bơi được và quyết định bơi qua sông khi nàng đang giặt áo. Thế nhưng khi cách bờ chừng mười mét thì Hoàng đuối sức, ngộp thở và chìm xuống nước. Khi tỉnh dậy vừa mở mắt, Hoàng thấy một khuôn mặt thanh tú đang nhìn mình mĩm cười với đôi mắt dịu dàng, nhân từ, hiền hậu như một thiên thần. Hoàng ngỡ mình đang ở thiên đường! Tiếng cười khúc khích của nàng làm Hoàng tỉnh hẳn và nhớ mình đã bơi đuối sức và ngạt thở, thấy áo quần nàng ướt sủng, để lộ những đường cong thanh tú của một thiếu nữ mới lớn, Hoàng biết nàng đã cứu mình. Thay vì chết chìm trong nước, Hoàng biết mình rồi sẽ chết chìm trong đôi mắt diễm tuyệt này.

Ngày xưa khi Tây Thi giặt áo bên sông, cá thấy bóng nàng đẹp quá, say mê quên cả bơi đến nổi phải chìm xuống nước, còn Hoàng say mê Liên đến nổi chìm đến hai lần, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Thế rồi họ yêu nhau, cưới nhau và dắt nhau về sống trong một tổ ấm nhỏ ở một con hẻm bên Hồ Tây. Không biết hai người hạnh phúc được bao lâu cho đến khi những khó khăn của cuộc sống vật chất mỗi ngày cứ lù lù đi vào cửa trước thì tình yêu cũng len lén theo cửa sau mà đi ra. Người ta có câu: Tình yêu là ngôi sao mà người đàn ông vừa đi vừa ngước lên nhìn, còn hôn nhân là cái hố mà hắn sẽ sụp xuống. Và Hoàng khổ sở như đang ở dưới lỗ cống.

Hoàng than thở rằng Liên bây giờ không còn là cô gái quê thùy mị nết na ngày xưa mà trở thành người đàn bà vật chất, câu cửa miệng luôn là tiền đâu? tiền đâu? Xã hội này phát triển quá nhanh: từ cái quần đen bạc màu nhăn nhó đến cái váy, quần jeans; từ cái đài và xe đạp đến cái tivi treo tường và xe tay ga chỉ chừng hai chục năm. Tranh cũng có giá cao hơn nhưng không thể sản xuất hàng loạt như  tivi và họa hoằn may mắn lắm mới bán được một tấm. Hàng xóm sắm sửa đủ thứ nhưng nhà anh thì không. Liên thôi không giúp anh trong xưởng vẽ để ra ngoài  kiếm việc riêng. Và khi người ta độc lập về kinh tế thì cũng muốn được tự do. Hoàng đi chơi với người mẫu thì tại sao Liên không được đi chơi với bạn bè nhỉ?  Rồi hai người quyết định âm thầm chia tay, âm thầm bởi chí có tòa án biết, còn bà con, bạn bè không hay vì vẫn thấy họ ở chung một nhà. Cà hai đều biết nếu bán nhà chia đôi thì khó kiếm được nhà khác trong nội thành, do đó tạm thời chịu đựng.  Cũng vì lý do muốn giữ bí mật mà Hoàng nhờ Hạnh, một người lạ từ Đà Nẵng ra trông coi cái gallery của anh. Có lần anh hỏi Hạnh: Em có dám ở lại luôn với anh không? Hạnh nói: Không dám. Em đang nghĩ cách gì đó để hai anh chị làm hòa với nhau.

Trong thời gian Hoàng đi miền Nam để dạy môn hội họa cho mấy trường sư phạm thì có một người khách từ Thái Lan ghé phòng tranh. Sau khi ngắm tranh rất kỹ, ông quyết định mua một tấm với điều kiện gặp được tất cả sáu người mẫu. Hạnh hỏi ông gặp với mục đích gì nhưng ông không nói, cô nảy ra ý sưu tra nhật ký phòng tranh để tìm địa chỉ của những người mẫu và mời họ đến. Ông đã gặp cả sáu cô và cô nào ông cũng chỉ tiếp chuyện dăm phút, tặng quà và cho họ về. Ông yêu cầu Hạnh cho ông được gặp họa sĩ. Rất may là Hoàng cũng vừa kết thúc công việc và trở về Hà Nội.

Ngay ngày đầu đến Hà Nội, Hạnh được Hoàng mời đến thăm nhà nhưng cô từ chối. Lần này, do ông khách người Thái yêu cầu nên cô phải dẫn ông đi. Hạnh ngạc nhiên thấy vợ Hoàng ở tầng dưới còn anh thì ở tầng trên. Cô tự hỏi không biết tình trạng hôn nhân của họ thực sự như thế nào mặc dù đã nghe anh kể khá rõ.

Liên tỏ ra khá vui vẻ khi được Hạnh tự giới thiệu mình và ông khách người Thái. Mặc dù được chỉ lên gác nhưng ông xin được ngồi nghỉ một chút ở tầng trệt với lý do huyết áp cao. Sau khi nói chuyện với Liên dăm phút, ông theo Hạnh lên tầng trên gặp họa sĩ.

Sau khi chào hỏi, ông khách người Thái nói: – Tôi rất thích tranh của ông vì cái triết lý vô thường mà ông muốn diễn đạt nhưng tôi tìm gặp ông không phải vì chuyện ấy. Tôi đã gặp tất cả người mẫu của ông và họ đều là những phụ nữ đẹp, mỗi người một vẻ, chẳng ai giống ai. Trong tất cả những bức tranh đều có một nét giống nhau, thế mà khi gặp họ, tôi có chú ý nhưng họ đều không có. Tôi đến đây là để hỏi ông cái nét đó của ai hay chỉ là tưởng tượng.

Hoàng nói: – Tôi cố tình mời những người mẫu khác nhau, và những nét khác nhau của họ tôi đã nhấn cho rõ rồi, còn những nét giống nhau thì tôi không chú ý lắm. Vậy theo ông nét gì của những nhân vật trong tranh giống nhau?

Ông khách người Thái nói: – Đôi mắt. Đó là đôi mắt của một cô gái chưa từng luyến ái, chưa bị hệ lụy với những đau khổ của cuộc đời, hết sức ngây thơ. Dù không thích hợp với những thân hình bốc lửa của người mẫu, nhưng chính đôi mắt đó làm những bức tranh khỏa thân ít bị trần tục hơn.

Hoàng ngạc nhiên: – Cám ơn ông rất nhiều. Vậy mà tôi không biết. Thường tôi chỉ làm việc với người mẫu vài giờ, không kịp vẽ đôi mắt. Tôi chỉ vẽ mắt theo tưởng tượng, không biết mắt ai.

Ông khách người Thái nói: – Ông không biết nhưng tôi đã tìm ra rồi. Đó là đôi mắt của vợ ông. Không phải đôi mắt bây giờ mà có lẽ ngày xưa còn trẻ. Ông diễn tả cái vô thường của vạn pháp nhưng ông lại bắt đôi mắt của vợ ông vẫn trẻ hoài như ngày xưa được sao?

Câu chuyện của họ trở nên vui vẻ và sau đó chuyển sang đề tài Phật giáo.

Có thể Liên ở tầng dưới cũng nghe được câu chuyện.



<><><>

Ghé lại phòng tranh để từ giã Hạnh trước khi trở về Đà Năng, tôi hỏi: 

– Gần hết hè rồi mà em không về dạy sao? Hay là em ở lại luôn với ông họa sĩ? Tôi hỏi.

– Em định về trong tuần này vì đã có người trực thay.

– Ai vậy?

– Thì chị Liên, vợ ông họa sĩ Hoàng chứ ai.

– Vậy là họ …?

– Có lẽ họ đã làm hòa với nhau, em cũng cầu mong như vậy..




Nguyễn Khắc Phước



Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

CHIM CHÀO MÀO - Truyện ngắn


CHIM CHÀO MÀO
Truyện ngắn
Nguyễn Khắc Phước
    
Thấy bạn bè nuôi chim, tôi cũng kiếm cái lồng, mua một chú chào mào thả vào nuôi cho vui. Tôi chọn chào mào vì ngày xưa ở quê bố tôi chỉ thích nuôi chào mào và vì chúng hót thật hay.

Người ta có thể bắt chim bằng cách nhái được tiếng của chúng, riêng tiếng chào mào thì không ai nhái được vì tiếng kêu của nó có nhiều cung bậc khác nhau, khi bổng khi trầm, tiếng trong tiếng đục và liếng thoắng một hơi dài, người ta gọi là giọng thổ đồng, nghe rất khoái lỗ tai. Đang buồn mấy nghe tiếng chào mào kêu cũng thành vui. Nhớ quê mà nghe được tiếng chào mào thì lòng cũng nhẹ nhõm.   
 
Thế nhưng con chào mào của tôi đã hơn một tuổi rồi vẫn không một tiếng hót. Bạn bè đến chơi, có người nói chim anh ta chưa mọc hết lông đuôi đã biết kêu bảy tám tiếng. Có người bày tôi thay đổi thực phẩm, thay lồng lớn hơn, đem lồng treo ngoài vườn cho nó bắt chước tiếng đồng loại. Thế nhưng mọi biện pháp đều vô ích. Tôi định đem thả nó và mua con khác nhưng thằng con mười tuổi của tôi không chịu. Nó không cần tiếng hót vì nó chưa nghe chim chào mào hót bao giờ. Nó sợ thả ra thì chim đói chết. Tôi định bụng hôm nào đó sẽ mua một con biết hót, lớn bằng con này và thả vào lồng khi con tôi đang ở trường.    

Một bữa nọ tôi chở thằng con đến trường xong quay về nhà . Vừa mở cổng thì nghe trong vườn có tiếng chim chớp mào hót. Tôi ngẫn người ra. Tiếng chim quá tuyệt vời tôi chưa bao giờ nghe con chào mào hót hay thế kể cả những con chào mào của bố tôi ngày xưa.  Nó hót một tràng có đến ba mươi giây và rồi tiếp một tràng khác liền sau đó. Chắc là giọng thổ đồng đây rồi. Tiếng hót như một khúc nhạc được diễn tấu bởi một nhạc công trứ danh: dồn dập, liếng thoắng, trầm bổng, trong trẻo và dần cao vút lên. Tôi cảm thấy tâm hồn mình phơi phới nhẹ tưng. Tôi lắng nghe một hồi và biết nó đang ở trên cây khế trước nhà. Anh này muốn đến tán chim nhà tôi đây. Cứ ở đó mà hót, ta sẽ có cách bắt chú mầy. Không dưng mình lại có một con chim hót cực tuyệt.  
  
Tôi lén ra phía sau nhà nơi treo sẵn cái lồng sập. Lấy cái lồng sập xuống tôi kiểm tra lưới, cài  lên rồi đưa ngón tay vào thử xem lưới có sập không. Tốt! Quá nhạy! Tôi vào cửa sau định bụng ra hiên  lấy lồng chim chào mào xuống và thả con chào mào của tôi vào lồng sập để làm mồi. Thế nhưng hỡi ôi, cái cửa lồng mở toang và con chào mào của tôi đã bay mất. Tôi nhớ hồi sáng vì vội đưa con đến trường cho kịp giờ học nên đã quên đóng cửa lồng. Tôi dậm chân muốn kêu trời nhưng lại thôi vì tiếng chim ngoài kia vẫn đang thánh thót.  

Tôi rón rén nhẹ nhàng từ từ di chuyển đến gốc khế và nhìn lên. Hình như con chim thấy tôi nhưng nó không bay đi, chỉ nhảy lên một nhánh cao hơn. Chim nhà ai mà dạn dĩ thế này? Nhìn kỹ thì nó giống y chang con chào mào bạc má có cườm quanh ức của tôi. Đúng rồi, nó là con chim của tôi đã sẩy lồng ra đây. Không thể có con nào giống nó như đúc vậy được. Tôi mừng quá, con chim tôi không những biết hót mà hót hay vào bậc nhất. Nhưng tại sao bấy lâu nay ở trong lồng nó không hót nhỉ? Một tiếng cũng không.

NKP