Thơ Việt Nam có nhiều loại vần: vần liền,
vần ôm, vần cách, vần lưng… Ở đây chỉ bàn đến vần liền.
Vần liền (còn gọi là vần chân) là 2 từ cuối câu
liền nhau vần với nhau, từng cặp trắc, cặp bằng.
Chẳng cần dông dài, xin dẫn một bài thơ dùng vần
liền mà ai cũng thuộc, đó là bài “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư mặc dù 2 từ liền
nhau không hoàn toàn là trắc hay bằng.
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?
Một bài thơ của Phạm Thiên Thư dùng vần liền đã trở
thành nổi tiếng nhờ được Phạm Duy phổ nhạc. Đó là bài “Ngày xưa Hoàng thị”.
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng.
Khi dạy vần liền thì thầy cô giáo thường lấy bài
thơ “Con ve và con kiến” của Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài La Cigale et la Fourmi,
thơ của La Fontaine, để làm ví dụ. Trong bài thơ dịch này, cụ Nguyễn không
những dịch sát nghĩa từng câu và dùng từ vựng tự nhiên như một bài thơ Việt, mà
cụ còn giữ nguyên thể thơ và vần y như bài thơ gốc. Bài thơ này có 2 loại vần:
liền và ôm. Tôi chỉ trích đoạn vần liền của 2 bài thơ:
Ve sầu kêu ve ve,
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thực bối rối.
Một miếng cũng chẳng còn,
Ruồi bọ không một con
Vác miệng chịu khúm núm,
Sang chị kiến hàng xóm,
Xin cùng chị cho vay
Dăm ba hạt qua ngày
Từ nay sang tháng hạ,
Em lại xin đem trả
Trước thu, thề Đất Trời!
Xin đủ cả vốn lời
…
La Cigale et la Fourmi
La Cigale, ayant chanté
Tout l'été,
Se trouva fort dépourvue
Quand la bise fut venue :
Pas un seul petit morceau
De mouche ou de vermisseau.
Elle alla crier famine
Chez la Fourmi sa voisine,
La priant de lui prêter
Quelque grain pour subsister
Jusqu'à la saison nouvelle.
"Je vous paierai, lui dit-elle,
Avant l'Oût, foi d'animal,
Intérêt et principal. "
…
Những người dịch thơ hiện đại có thể tôn cụ Nguyễn
Văn Vĩnh làm ông tổ của mình bởi dịch như thế thì quá hay và không ai qua mặt
được. Còn nếu nói cụ Vĩnh là người tiên phong đưa cách gieo vần của thơ Pháp
vào thơ mới thì tôi e rằng không đúng bởi vì vần liền đã có trong những bài hát
nói của Nguyễn Công Trứ trước đó một thế kỷ.
Hát nói là ca từ của làn điệu ca trù nên có những
đặc trưng riêng của nó về kết cấu, về độ dài, thường dùng hai loại vần: một ít
câu có vần lưng, đa phần các câu còn lại
đều vần liền. Có bài vần liền là chính, không có vần lưng nào cả (không đề cập
đến câu mưỡu lục bát).
Ta hãy đọc bài hát nói “Chơi cho phỉ chí” của
Nguyễn Công Trứ sau đây:
Cầm kỳ thi tửu khách,
Đường ăn chơi, mỗi cách, mỗi hay,
Đàn năm cung réo rắt tính tình đây,
Cờ đôi nước dập dình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú xuất trần tiên vẫn là ta,
Sách Hoàng Thạch, Xích Tùng à cũng đáng.
Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng.
Một chữ nhàn, giá đáng muôn chung,
Người cõi thế, trăm năm là mấy nhỉ
Sách có chữ “Nhân sinh thích chí”,
Đem nghìn vàng đổi lấy tiếng cười,
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay.
Một bài hát nói đúng khổ chỉ 11 câu. Bài này là một
bài hát nói dôi khổ, có đến 17 câu. Vần lưng chỉ 2 lần, còn lại là vần liền ở
cuối câu (vần chân).
Như vậy vần liền trong thơ mới không phải có từ
thời Nguyễn Văn Vĩnh mà có trước đó nhiều thế kỷ, bởi ca trù thịnh hành ở đồng
bằng Bắc Bộ từ thế kỷ 15. Đây là thể thơ phục vụ lọai hình ca nhạc đặc biệt, và
vần liền là loại vần có sẵn trong thơ Việt Nam , không phải ảnh hưởng của thơ
Pháp.
Cũng có tác giả cho rằng vần liền trong thơ 8 chữ
của thơ mới bắt nguồn từ hát nói.
Tuy nhiên, như đã nói, hát nói và ca trù chỉ thịnh
hành ở Bắc Bộ và giới hạn trong giới nho sĩ và đào nương nên không phải là loại
hình giải trí dành cho giới bình dân và không được cả nứơc biết đến. Thế nhưng
vần liền trong thơ mới là vần rất phổ biến trong thơ mới và được người làm thơ
cả nứơc sử dụng. Vậy vần liền bắt nguồn từ đâu?
Rất có thể vần liền (và kể cả vần lưng) bắt nguồn
từ đồng dao.
Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em
Việt Nam
những thế kỷ trước. Các bài đồng dao gắn liền với các trò chơi trẻ em và phổ
biến ở mọi vùng miền, từ Bắc chí Nam, phần nhiều là ở nông thôn bởi đa phần
những trò chơi đó là của trẻ em miền quê.
Có thể nói làm thơ có vần là khả năng bẩm sinh của
người Việt. Trẻ con chưa đi học (và cả người lớn ít học) mở miệng ra là nói
“thơ” có vần.
Đồng dao thừơng sử dụng vần lưng và vần liền . Nhiều
bài dùng cả 2 loại vần. Tôi chỉ chép lại một vài đoạn đồng dao dùng vần liền
nhiều hơn vần lưng.
1. Đi cầu ăn quán
Đi bán lợn con
Đi mua cái xoong
Đem về đun nấu
Mua quả dưa hấu
Về biếu ông bà
Mua một đàn gà
Về cho ăn thóc
Mua lược chải tóc
Mua cặp gài đầu
Đi mau về mau
Kẻo trời sắp tối.
2. Lặc cò cò
Mò cuốc cuốc
Cò chân bước
Cuốc chân vàng
Sang đây chơi
Ngồi đây hát
Mỏ dính cát
Thì xuống sông
Bùn dính lông
Thì đi rửa
Chân giẫm lúa
Thì phải treo
Cù kheo à ập.
3. Tập tầm vông
Con công hay múa
Nó múa làm sao
Nó rụt cổ vào
Nó xòe cánh ra
Nó đậu cành đa
Nó kêu ríu rít
Nó đậu cành mít
Nó kêu vịt chè
Nó đậu cành tre
Kêu bè rau muống
Nó đậu dưới ruộng
Nó kêu tầm vông
Tập tầm vông …
4 . Nghe
vẻ nghè ve
Nghe vè đánh bạc
Đầu hôm xao xác
Bạc tốt như tiên
Đêm khuya không tiền
Bạc như chim cú
Cái đầu xù xụ
Com mắt trõm lơ
Chân đi cà ngơ
Như con chó đói
Dạo xóm dạo làng
Quần rách lang thang
Lấy tay mà túm …
Văn hóa của người Việt chắc chắn có chịu ảnh hưởng
của người phương Bắc và người phương Tây vì bị họ đô hộ lâu dài. Việc làm thơ
cũng vậy. Tuy nhiên, làm thơ có vần nói chung và thơ vần liền nói riêng là khả
năng bẩm sinh của người Việt chứ không phải chỉ học được của người Pháp hay
Tàu.
Cụ Nguyễn Văn Vĩnh dịch baì thơ “Con ve và con
kiến”, theo tôi, không phải để truyền bá loại thơ vần liền, nhưng cụ đã tìm
thấy hai nền văn hóa khác nhau có thể thơ giống nhau và đã vận dụng vần và ngôn
ngữ đồng dao Việt để dịch bài thơ Pháp ấy.
NKP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét