Thứ Tư, 28 tháng 9, 2022

NHƯ CHƯA HỀ ĐOÀN TỤ - Truyện ngắn

 

Truyện ngắn

NHƯ CHƯA HỀ ĐOÀN TỤ

Nguyễn Khắc Phước

 

Buổi trưa ở thị trấn Prao, huyện Đông Giang. Trời nắng như đổ lửa nhưng học sinh đa phần là con em đồng bào Cơ-tu đi học về chẳng có em nào đội nón. Chúng tôi chỉ mất chừng năm phút để đi xe máy giáp vòng thị trấn, cuối cùng cũng kiếm được quán cơm duy nhất đói diện với một cơ quan nhà nước. Mặc dù đã vào giờ ăn trưa nhưng quán vắng ngắt. Trước quán có có một xe máy mang biển số Đà Nẵng của một người khách duy nhất đang ngồi ăn trong quán.  Tôi đưa tay chào để làm quen:

-Chào anh bạn từ Đà Nẵng nhé. Chúng tôi cũng từ đó lên đây.

Vậy là chúng tôi bắt đầu chuyện trò vui vẻ.

Đức là một người thích du lịch bằng xe máy, ngày nay gọi là “đi phượt”. Một mỉnh một xe máy, anh đã đến rất nhiều nơi, từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Có lần anh sang Lào và vài nơi ớ Thái gần biên giới Lào.

Việc đi lại với anh có phần thuận lợi nhờ anh có bạn khắp nơi vi có một thời anh là tài xế xe tải, thưởng chở hàng hoá trong đó phần lớn là lốp xe của DRC - Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng đến các đại lý trong nước. Thế nhưng vì chuyện gia đình nên anh đã nghỉ việc gần mười năm nay.

Chuyện của Đức kể ở Prao chỉ đến đó khi chúng tôi rời quán ăn và Đức tiếp tục cuộc hành trình của anh.

Vài tháng sau, khi tôi được bạn mời vào họ nhà trai đến thị trấn Khâm Đức, huyện Phước Sơn để dự tiệc cưới và rước dâu về Đà Nẵng, tôi lại gặp Đức ở một quán cà phê. Tôi rủ Đức tối ở lại ngủ với tôi vì phòng còn dư một giường ở một khách sạn được trang bị khá cao cấp dành cho những tay buôn vàng và sâm Ngọc Linh.

Tối hôm đó, sau khi thử món thịt rừng với rượu ba kích, hai đặc sản của thị trấn miền núi này, chúng tôi về khách sạn và Đức kể tiếp câu chuyện của anh mà ở Prao chỉ mới khúc đầu.

Có một thời các thuỷ thủ ghé Nhật thường mua hàng nội địa cũ như máy giặt, máy điều hoà, máy cát-set mang về nước bán. Đức được thuê chở thứ hàng này nên anh ra vào cảng Đà Nẵng thường xuyên. Anh thường gặp Vĩnh là nhân viên thúế vụ ở đó. Hai người quen nhau rồi yêu nhau và tiến tới hôn nhân không mấy khó khăn vì cả hai đều có gia đình lâu đời ở trung tâm Đà Nẵng.

Cuộc sống tượng đối hạnh phúc, không thiếu thốn về vật chất cũng như tinh thần vi hai người chỉ có một cậụ con trai duy nhất.

Một ngày nọ, một bạn học cũ ở trường Phan Chu Trình mời Đức và hai bạn nữa vào TP HCM dự đám cưới của con trai anh ta. Một vài bạn cùng lớp khác cũng đến tham dự. Sau tiệc cưới, họ rủ nhau đến một quán nước để hàn huyên.

Đang ngồi cà phê, một bạn đứng dậy, bước nhanh ra đường và gọi một người phụ nữ đang đi ngang qua:

-Định, Định. Đức ở đây này.

Người phụ nữ kia quay lại và lớn tiếng mắng:

-Đừng có vớ vẩn nghe cha nội. Tui đâu phải Định mà kêu.

Đức bước ra xem chuyện gì và ngạc nhiên thấy chị kia giống vợ anh như đúc. Đức ôn tồn nói:

-Xin lỗi cô. Ông bạn của tôi nhầm cô với với vợ tôi vì hai người giống nhau như chị em sinh đôi vậy. Mong cô tha lỗi.

Người phụ nữ bớt giận và hỏi:

-Anh tử đâu đến?

-Từ Đà Nẵng.

-Tôi nghe mẹ nói tôi một người em sinh đôi ở Đà Nẵng đã mất liên lạc được từ 1972. Biết đâu vợ anh là em ruột của tôi.

Hai người nói chuyện một lúc và người phụ nữ kia mời anh đến nhà để mẹ chị gặp và trao đổi cho tường tận.

Đức xin địa chỉ và hứa ngày hôm sau sẽ đến vì hôm nay phải họp mặt với bạn bè mấy chục năm rồi mới gặp lại nhau.

Hôm sau, Đức tìm đến địa chỉ mà Vĩnh, người phụ nữ hôm qua gây lộn với bạn của anh, đã cho anh.

Tiếp anh là bà cụ đã trên 80 nhưng sức khoẻ còn khá tốt.

Mặc dù ở miền Nam mấy chục năm rồi, bà vẫn nói giọng Quảng Trị đặc sệt:

-Nghe con gái tui nói vợ chú ở Đà Nẵng giống hắn như tạc, mà hắn cũng có đứa chị sanh đôi mà năm 72 tui đã gởi người ta nuôi ngoài Đà Nẵng, từ đó đến chừ không liên lạc được vì mất tờ giấy ghi địa chỉ nhà cha mẹ nuôi.

Tay xách nách mang bốn đứa con chạy bộ từ Quảng Trị vào Huế. Bà và các con được một chiếc xe tải đưa từ Huế vào Đà Nẵng và cho bà và các con xuống tại trung tâm thành phố. Không nhớ chỗ đó là đâu. Đang lúc bơ vơ và đói lả, bà được một gia đình cho tá túc được vài ngày. Thời gian đó, có nhiều người cùng quê lang thang trên đường. Họ nói mấy trại tạm cư có phát gạo nên bà hỏi đường đến đó. Lúc rời nhà trọ, một trong hai bé sinh đôi, lúc đó mới hai tuổi, bị sốt nên ông bà chủ nhà trọ biểu để cháu ở lại để họ chăm sóc, ít bữa ổn định chỗ ở thì quay lại bồng cháu đi. Thế nhưng sau vài ngày ở trại tạm cư, có một chuyến xe duy nhất đến chở bà con đi kinh tế mới ở miền Nam, bà cùng ba con đành phải lên xe đi mà chưa kịp trở lại nhà trọ cũ để mang bé Định đi cùng.

Mọi chuyện đều như trên trời rớt xuống, Đức chẳng biết thực hư thế nào. Nếu thằng bạn của Đức không trông thấy Vĩnh thì không có chuyện rắc rối thế này.

Gia đình cha mẹ vợ của Đức là người gốc Đà Nẵng và gia đình anh cũng vậy. Vợ anh là người rất hiếu thảo, thường xuyên về nhà thăm cha mẹ ruột và bao giờ cũng mang theo quà biếu, không có dấu hiệu gì vợ anh là con nuôi.  Thế mà bây giờ lại xảy ra chuyện rắc rối, Đức không biết tính sao. Liệu anh có nên kể chuyện này với vợ và cha mẹ vợ?

Anh cảm thấy mình giống một nhân vật trong một truyện tương tự trong tập phim truyền hình Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly của nhà báo Thu Uyên. Anh vốn là một tài xế, thường có phản ứng nhanh để giải quyết sự việc, vậy nên anh hứa với bà mẹ của Vĩnh sẽ mang chuyện bà kể vể thưa lại với cha mẹ vợ, thử xem sự thật thế nào, vợ anh là con ruột hay con nuôi của cha mẹ vợ.

Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly kể về những cuộc sum họp gia đình rất cảm động, tưởng như chỉ có trong mơ, thế nhưng những gì xảy ra sau khi đoàn tụ thì mỗi gia đình mỗi cảnh, phim không bao giờ nói hết.

Về nhà, Đức vô tư kể lại chuyện trên cho vợ nghe. Sau đó, anh đến nhà cha mẹ vợ để hỏi chuyện ấy hư thực thế nào.

Đức được cha vợ dạy một bài học:

-Mầy là thằng ngu. Đang ăn yên ở yên, khi không mầy nghe chuyện tào lao ngoài đường lại cho là thực và đem về nhà thêm sinh chuyện. Giá như mầy im đi, chuyện đâu để đó, thì chẳng có chuyện gì rắc rối xảy ra. Ví dụ như mầy ra đường nghe ai đó nói thằng Tuấn không phải là con ruột của mầy, mầy có tin không? Rồi mầy nghe lời người ta tức tốc đi làm xét nghiệm ADN. Biết bao thằng làm như vậy nhưng chúng là những thằng ngu. Thằng khôn biết suy nghĩ thì không bao giờ làm vậy. Chăm sóc một đứa trẻ từ lọt lòng đến khi trưởng thành, biết bao nhiêu là công sức, của cải và tình yêu thương dành cho nó. Gia đình hạnh phúc, trên dưới thuận hoà.  Đùng một cái phát sinh chuyện xét nghiệm ADN, khiến gia đình tan nát. Kết quả nó là con ruột của mầy thì mầy cũng mất thằng con vì nó chẳng còn kính trọng mầy. Tình cảm vợ chồng mầy cũng sụp đổ vì mầy là kẻ tâm thần, đồng bóng, hoặc đang thực hiện âm mưu thâm độc bằng cách dựng chuyện để bôi nhọ danh dự gia đình. Nếu kết quả nó không phải là con ruột của mầy, vậy là công nuôi dưỡng của mầy bấy lâu thành công cốc. Công sinh sao bằng công dưỡng. Mầy mất một thằng con. Mầy biến một đứa trẻ có cha mẹ đàng hoàng thành đứa mồ côi. Có ác độc không? Có vô nhân đạo không? Mày chưa đến tuổi để ngộ ra rằng sinh ra một đứa trẻ là đưa một sinh linh vào vòng sinh lão bệnh tử. Nó phải tiêm đến 10 thứ  vắc-xin mới có thể sống sót. Rồi học hành, thi cử, kiếm công việc làm, thực ra là đi làm đầy tớ cho người ta chỉ để kiếm cái ăn, cái mặc, cái nhà … cũng giống như những sinh vật khác, thậm chí còn khổ hơn bởi những loài khác không có chiến tranh. Con ruột và con nuôi, chưa biết đứa nào có hiếu hơn đứa nào. Mầy không thấy hai đứa con ông Năm Giỏi nghe tin cha ốm tìm về, nhưng khi nghe nhà đã cầm cố để lấy tiền chửa bệnh cho cha thì hai đứa lặng lẽ bỏ đi.  Hoá ra chúng về chỉ  để chia gia tài. Ông Tám Khéo có một đứa con gái duy nhất lấy chồng ở nước ngoài, nay trên 80 rồi, mặc dù không thiếu thốn vật chất nhưng thiếu thốn tình cảm, thấy hai ông bà thui thủi, rất buồn. Nếu hồi trẻ ông bà xin một đứa con nuôi thì nay đã có người lui tới chăm sóc. Thế nên tao định khuyên vợ chồng bây nên xin một đứa con nuôi, gọi là làm phúc, làm phước để tạo nghiệp lành. Nuôi con gái càng tốt vì lớn lên mình gả chồng cho nó là hoàn thành nhiệm vụ.

 

Chuyện về vợ Đức có cô chị sinh đôi lắng xuống một thời gian  đến khi Tuấn, con trai của họ vào TP HCM dự thi vào đại học và vợ anh dẫn Tuấn đi, nhân tiện vào thăm bà mẹ và chị gái mà Đức đã đến thăm mấy năm trước.

Hai mẹ con trở về khi Tuấn thi xong. Vĩnh vui vẻ cho Đức biết là hai chị em đã đi xét nghiệm ADN và kết quả họ là chị em ruột. Đức dặn vợ phải giữ bí mật, không những không cho ông bà ngoại của Tuấn biết mà còn thường xuyên đến chăm sóc và tặng quà.

 

Tuấn đươc trúng tuyển vào Đại học Kiến trúc TP HCM và lên đường nhập học. Không lâu sau đó, Vĩnh nhắn tin Định vào gấp vì mẹ đau nặng, hai anh đã ở nhà riêng nên cần Vĩnh vào chăm sóc. Ngoài ra hai anh còn đồng ý để mẹ chuyển quyền thừa kế ngôi nhà cho Vĩnh để bù lại thời gian phải làm con nuôi.

 

Vĩnh lặng lẽ đi Sài Gòn, không báo cho cha mẹ, bây giờ là cha mẹ nuôi, biết vì sợ họ buồn. Thực ra, ông bà không buồn lắm, cho rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ.

 

Vì mẹ bị tai biến và nằm liệt giường nên Định phải túc trực ngày đêm. Đức không đi Sài Gòn được vì một mình quản lý cửa hàng xe đạp và phải thường xuyên đến thăm và tặng quà cha mẹ nuôi của vợ, nói dối là quà của vợ gởi biếu ông bà ngoại.

Đức và Định dần dần thưa điện thoại hoặc nhắn tin cho nhau vì Định không cầm máy. Tuấn ra trường và kiếm việc ở Sài Gòn nên không về nhà. Trong thời kỳ dịch Covid 19, Tuấn nhắn tin bà ngoại đã mất ở bệnh viện, mẹ nó nhận được hủ tro cốt mà người ta nói là của bà ngoại.

  

Đức một mình ở nhà. Thỉnh thoảng đóng cửa hàng để đi phượt bằng xe máy. Thời gian thấm thoát đã gần mười năm vợ chồng anh không gặp nhau.

 

Được hỏi tại sao Định có thể quên gia đình cha mẹ nuôi và chồng dễ dàng như vậy, Đức nói có lẽ ở nhà cha mẹ nuôi, vợ anh cảm nhận được mình là con nuôi và quen với lối sống tử tế ngoài mặt mà xa cách trong lòng. Đến bây giờ, anh mới nhận ra vợ anh chỉ làm cho xong phận sự của một người vợ, người mẹ chứ không tích cực hay sốt sắng vào bất cứ việc gì. Trong lòng Vĩnh có lẽ chỉ ấp ủ một thứ mà thôi, đó là ước mơ có ngày được đoàn tụ với gia đình ruột thịt.

 

Được hỏi Đức có định tái giá hay quan hệ tình cảm với ai nữa không, anh dứt khoát nói không. Anh hài hước thêm:

-Mình đã yêu và cưới một phụ nữ yêu mình, có lý lịch và nguồn gốc rõ ràng, hoá ra họ chẳng yêu mình và lý lịch chắp vá. Mình chỉ cưới được cái xác chứ không cưới được cái hồn, ôm đươc cái thân chứ không ôm được cái tâm. Nếu không có Eva và con rắn thì Adam vẫn thong dong vui chơi trong vườn địa đàng chứ đâu phải xuống trái đất để lao động khổ cực và chưa ai nói hai người đó được ly thân. Còn mình được Thượng đế cho ly thân với Eva và đưa mình trở lại thiên đường rồi, không dại gì mà quay trở lại bể khổ trần gian ấy nữa. Chuyện của mình chưa có hồi kết nên nếu Thu Uyên đưa lên phim thì phải đặt tên là: Như Chưa Hề Có Cuộc Đoàn Tụ.

 

 

 

 

 

 

 


Thứ Hai, 26 tháng 9, 2022

NGƯỜI BẠN CŨ - Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước



NGƯỜI BẠN CŨ 

Truyện ngắn của Nguyễn Khắc Phước 

 

Nếu không có buổi họp chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập trường thì tôi đã không có dịp gặp lại Khoa, người bạn cùng lớp, sau 40 năm cách mặt. 

Khoa ngồi cùng bàn với tôi từ những năm đệ nhất cấp sang đệ nhị cấp, sau đó, khi rời Quảng Trị vào Huế, mỗi thằng học mỗi trường, nó học luật, tôi học sư phạm, ở cư xá khác nhau. Phần tôi vì sợ quân dịch nên túi bụi lo chuyện học hành, thỉnh thoảng mới gặp nhau ở quán cà phê đường Trương Định, chỗ sinh viên thường hay lui tới. 

Khi tôi đến dự buổi hội trường thì không biết Khoa đang có mặt ở đó. Nó ngồi đối diện với tôi nhưng tôi không nhận ra. Chỉ khi anh đại diện ban liên lạc giới thiệu, chúng tôi mới ồ lên ngạc nhiên rồi tay bắt, mặt mừng. Sau buổi họp, tôi mời Khoa ra quán nước để tâm sự cho thỏa. 

Hồi trung học, nó không những là bạn thân của tôi mà còn định làm em rể của tôi bởi nó léng phéng tán tỉnh Thúy - cô em gái của tôi. Nó thường la cà đến nhà tôi, giả bộ trao đổi chuyện học hành với tôi, nhưng thực ra chỉ để gặp Thúy và tặng thơ tình mà nó hầu như luôn để sẵn trong túi. Thúy thường cho tôi đọc thơ của nó, nhưng vì tế nhị, tôi không bao giờ kể gì với Khoa, với lại, tôi cho đó là việc của trẻ con, không cần quan tâm. Tuy nhiên, tôi không phải là thằng tốt đẹp gì nên thường tỏ ra có quyền hành với nó, thế nhưng nó luôn tử tế với tôi. 

Mấy năm ở đại học, vì quá bận học hành nên tôi không biết hai đứa nó có còn liên lạc với nhau không. Nếu hai đứa nó đến được với nhau thì tôi cũng mừng vì Khoa có đến hai giấy hoãn dịch, một vì lý do gia cảnh vì nó là con trai độc nhất, một vì lý do học tập. Tôi mà rớt thì phải ra chiến trường, còn nó rớt thì chẳng hề hấn gì, vẫn tiếp tục học thoải mái. Thế nhưng khi tôi sắp hết năm thứ hai thì Thúy buồn bã bỏ ăn mấy ngày, hỏi ra thì Khoa đã bỏ lên rừng theo Mặt trận, chỉ để lại cho Thúy ít dòng. Hồi đó, chuyện sinh viên bỏ lên rừng theo cách mạng là chuyện thường, không ai ngạc nhiên. Riêng Khoa thì hơi ngạc nhiên vì chưa bao giờ nghe nó nói chuyện chính trị, chỉ biết làm thơ tình. Với lại, nó chẳng tham gia hoạt đông tranh đấu của sinh viên như viết báo hay ứng cử vào ban đại diện sinh viên. Và ba nó, vì một chân có tật, phải đi khập khiễng, nên bên nào cũng chê. Nếu tôi phải đi lính,  e rằng có lúc hai thằng chúng tôi đã bắn vào nhau trên chiến trường. 

Mọi chuyện đều đi vào quên lãng trong cái vòng xoáy của thời cuộc. Thời buổi chiến tranh, chỉ lo cái thân nay còn mai mất, hòa bình thì lo miếng cơm manh áo, nên trong suốt mấy chục năm, thú thật, tôi quên phéng nó. Quên cũng là may cho nó bởi nó đã khiến em gái tôi phải ốm tương tư một thời gian dài. Chỉ một hai năm gần đây, nhờ công nghệ thông tin nên các bạn cùng lớp lập một danh sách gởi về cho tôi, trong đó có tên Lê Chí Khoa kèm ghi chú: "Nghe nói ở miền Nam, không rõ địa chỉ." 

Bây giờ, thằng Khoa bằng xương bằng thịt với mái tóc muối tiêu dài kiểu nghệ sĩ đang ngồi trước mặt tôi bên bờ sông Thạch Hãn và kể về phần đời của nó mà tôi không hề biết tới. 

Khoa kể khi tổ chức đưa nó lên chiến khu (à, thì ra nó thuộc một tổ chức cơ sở hoạt động bí mật ở nội thành mà tôi không hay), sau một trận đánh, nó bị thương nhẹ, được đưa ra Hà Nội chữa bệnh và học tiếp, không phải luật mà là văn. Sau ngày giải phóng, tổ chức phân công Khoa về miền Tây, phụ trách báo chí. Trước khi đi, Khoa có về thăm nhà và thấy cha mẹ nó đang nuôi một bé trai lai, môi dày, da ngăm, nên nó khá bực tức. Bao năm đi đánh Mỹ bây giờ về nhà lại thấy trong nhà mình có thằng con của Mỹ, thật là trớ trêu. Nó thấy thằng bé cũng dễ thương nhưng lại sợ ảnh hưởng đến lý lịch trơn tru không dính dáng một chút gì đến chế độ cũ của mình, lại thuộc vào thành phần cơ bản, được chiếu cố. Khoa khuyên cha mẹ nên gởi thằng bé lại cho cô nhi viện, nơi cha mẹ nó tản cư đến tạm trú một thời gian, nhưng lúc đó, một vì phần cô nhi viện nơi nuôi thằng bé đã giải tán, một phần vì cha mẹ nó nhất quyết không chịu, nói: Bao năm ba mẹ không biết con sống chết thế nào, nên cố xin thằng bé về nuôi để sau này nhờ cậy nó, bây giờ để người khác nuôi, sao đành. Với lại, những người phụ trách cô nhi viện đã tin tưởng gởi gắm và mình lại chịu ơn họ nên không thể thất hứa. Mình đưa nó về nhà mình chớ nó đâu có tự đến. Mình không nuôi nó thì có người khác xin ngay. Hơn nữa, nó khỏe mạnh cùi cụi, dễ bảo, sai đâu chạy đó. học hành thông minh. 

Khoa đành khăn gói lên đường làm nhiệm vụ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho mình nếu chuyện này lộ ra. 

Chừng hơn mười năm sau, Khoa được tin Minh - thằng em nuôi của Khoa - được xuất cảnh theo diện con lai, và vài năm sau thì cha mẹ Khoa được xuất cảnh theo diện gia đình có con lai, sang sinh sống với Minh ở nước ngoài. 

Hôm cha mẹ Khoa vào Sài Gòn ở nhà người bà con để chuẩn bị lên máy bay, vợ chồng Khoa và hai con có đến thăm để tiễn đưa. Đó là lần Khoa gặp cha mẹ gần nhất và cũng là lần cuối. Chừng sáu năm sau khi cha mẹ Khoa ổn định chỗ ở và có thẻ xanh, vợ chồng Khoa và hai con được bảo lãnh xuất ngoại. Mặc dù đã làm thủ tục gấy tờ đầy đủ, nhưng đến phút chót, Khoa quyết đinh để vợ và hai con lên máy bay, còn Khoa ở lại một mình, nói lúc nào có điều kiện sẽ sang. Lý do mà Khoa không muốn đi là do trước đây Khoa đã lỡ khuyên cha mẹ đuổi Minh, mặc dù Minh không hề biết. Điều cha mẹ Khoa mong mỏi trước đây bây giờ trở thành hiện thực và Minh đúng là một người con có hiếu. "Nó là một thằng con nuôi lai nhưng tốt hơn nhiều thằng con ruột, trong đó có tao," Khoa nói. 

Hai lần Khoa cần sang Mỹ nhưng đi không được vì đều bận công tác, đó là lúc cha nó mất vì tuổi già, rồi không lâu sau, mẹ nó cũng theo ông. Rồi vì chờ quá lâu,vợ Khoa làm đơn ly dị và lấy chồng khác. Khoa không nói nhiều về chuyện vợ nó ly dị, có lẽ bởi đó là chuyện khó tránh của nhiều gia đình có hoàn cảnh tương tự và tôi cũng tế nhị không hỏi gì thêm. 

"Mấy năm làm việc bân rộn nên không biết buồn, nay về hưu, cảm thấy trống trải quá. Chợt nhớ quê hương, bà con, bạn bè nên bò về thăm," Khoa nói. 

"Tại sao mầy không sang sống với hai con cho sướng?" tôi hỏi. 

"Sướng cái con khỉ chùa cầu thì có! Mình không thạo tiếng người ta thì chỉ có ngồi nhà xem ti vi suốt ngày. Thì cũng được đi, nhưng oái oăm là thằng rể và con dâu tao đều là người bản xứ, cha chúng nó đều đã tham chiến tại Việt Nam và đều đã chết trận, ai cấm chúng nó nghĩ có thể bố vợ và bố chồng chúng nó đã từng bắn nhau với cha chúng?" Khoa nói. 

"Người ta đang kêu gọi bỏ qua quá khứ, cùng nhau hợp tác, hướng đến tương lai, còn mầy cứ khư khư ôm dĩ vãng nặng nề đó làm gì. Giả dụ như mày có đánh nhau với cha chúng nó cũng là chuyện thường tình của chiến tranh. Hơn nữa, thời gian mầy trực tiếp chiến đấu không lâu," tôi nói. 

"Biết vậy nhưng đó là chuyện quốc gia, còn riêng mình vẫn cảm thấy khó ở. Trong trường hợp của tao, vì cùng là thành viên của một gia đình cùng chung sống dưới một mái nhà nên cái tâm của mình không thể thoải mái được," Khoa nói. 

"Nghĩa là bây giờ mày sống tự do một mình bằng lương hưu, lâu lâu có các con tài trợ, phải không? Thỉnh thoảng giao du với em út? Vậy thì có tiên mới sướng hơn mầy, còn đòi gì nữa?" 

"Nhưng vẫn thường trực cô đơn và không biết làm gì cho hết thì giờ," Khoa nói, 

Khoa chuyển đề tài: "Cho tao gởi lời xin lỗi Thúy và cả mầy nữa, dù muộn." 

"Mầy có lỗi gì đâu. Bỏ một người để lo cho triệu người là chuyện chính đáng," tôi nịnh nó. 

"Mầy lên lớp chính trị thì thua tao dù mầy là giáo viên dạy văn. Bây giờ Thúy ra sao, đang ở đâu, gia đình thế nào?" Khoa hỏi. 

"Nó đang ở với con gái trên Đà Lạt. Chồng nó mất lâu rồi." 

"Tôi nghiệp Thúy! Thôi được, mầy cho tao địa chỉ của Thúy. Sau ngày hội trường, tao sẽ đi Đà Lạt."

 

18/4/2012

Nguyễn Khắc Phước

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2022

THƯ HỒI ÂM

 

Thư hồi âm

(30 năm trước)

 

Thế nào sang năm anh cũng về thăm

Để mừng sinh nhật em bốn sáu

Để mừng em đủ chồng con cháu

Để nghe lại giọng cười thuở mười sáu vẫn còn tươi


Còn nhớ không, sáng mùa xuân mình đi rong chơi

Con đường ven sông dịu dàng nắng gió

Em nhí nhảnh cười đùa nghiêng ngó

Như chim sâu trong vườn ổi ven đường


Và đẹp làm sao tuổi thiên đường

Khi lang thang qua đồi sim chiều nhạt nắng

Ngồi bên nhau sân giáo đường yên vắng

Em trong trắng thiên thần anh khờ khạo con chiên


Lại hẹn nhau trên cầu Trường Tiền

Dịu dàng bay tà áo trắng hồn nhiên

Anh trao em chùm phượng hống hái từ vườn cư xá

Em cài lên tóc một đóa làm duyên


Cánh phượng ép thuở nào hẳn không còn nguyên

Nhưng ký ức thuở hoa niên vẫn còn tươi rói 

Hai mươi năm biết bao điều chưa nói

Gặp nhau lần này tâm sự sẽ triền miên

1992

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2022

Truyện cổ Ukraina: CÔ GÁI VÀ NGƯỜI MẸ ĐỘC ÁC - Tác giả: A. H. Wratislaw

 


Truyện cổ Ukraina 

CÔ GÁI VÀ NGƯỜI MẸ ĐỘC ÁC 

Tác giả: A. H. Wratislaw

 

     Trong rừng nọ có một túp lều tranh. Trong đó có một cặp vợ chồng già rồi nhưng họ không có con. Họ đi hành hương để cầu xin Chúa ban cho họ một đứa con. Chúa cho họ sinh một cô con gái. Cô ấy càng lớn lên càng xinh đẹp. 

     Một hôm, hoàng tử cưỡi ngựa đi săn, khi thấy một túp lều trong rừng, anh sai thị vệ tới đó xin nước. Thị vệ tới khi đứa trẻ đang khóc, và thấy những viên ngọc trai đang lăn từ mắt nó xuống. Được mẹ dỗ dành, nó bắt mỉm cười. Ngay khi nó mở miệng cười, nhiều loài hoa nở quanh nó. Người hầu đi ra và nói: ‘Thưa hoàng tử, hạ quan đã thấy một bé gái; khi nó khóc, ngọc trai lăn xuống; và khi nó cười, muôn hoa đều nở rộ.” Hoàng tử đi vào túp lều và bắt đầu trêu chọc đứa trẻ khiến nó khóc. Khi bé gái khóc, những viên ngọc trai lăn xuống. Sau đó, hoàng tử biểu mẹ nó dỗ dành nó. Khi nó mỉm cười, hoàng tử thấy muôn loài hoa nở rộ. 

     Cô gái tiếp tục lớn lên, và hoàng tử luôn đi đường đó khi đi săn. Khi cô ấy đã lớn, hoàng tử nói với bà mẹ cô gái: “Bà hãy gả con gái cho ta làm vợ.” Lúc đó, nàng đang thêu khăn tay có hình đại bàng. 

     Nhưng hoàng đế nói: “Hỡi con trai của ta, trí khôn của ngươi đã đi đâu rồi, mà con lại muốn lấy một cô gái nông dân làm vợ? Khi hoàng tử trình nhà vua cái khăn tay mà cô ấy đã thêu, hoàng đế vỗ tay: “Cưới đi,” ông nói, “Con ơi, cưới đi!” 

     Sau đó anh ta đưa cô về triều, mang theo cả mẹ cô ấy nữa. Khi họ đang trên đường đi, hoàng tử dừng lại để săn bắn. Nhân cơ hội ấy, bà lão lấy tất cả mọi thứ trên mình con gái, lấy cả cặp mắt cô rồi đẩy cô vào một cái hang sau khi mặc quần áo khác cho cô để hoàng tử không nhận ra cô nữa. 

     Quanh hang có vô số bụi rậm. Một ông già đến lấy củi phát hiện một cô gái đang ngồi trong hang, và trước mặt cô là một đống ngọc, cô đã khóc khi ngồi đó, nhưng cô ấy không có mắt. Cô gái nói: “Hỡi ông già tốt bụng, hãy nhặt đồ trang sức ở đây và đưa tôi đi.” Ông già nhặt hết đồ trang sức và dẫn cô ấy về nhà ông. Nhà ông già không có trẻ con, nhưng có một bà già. 

     Cô ấy nói với ông già: “Hãy bỏ đồ trang sức trong một chiếc túi, và mang chúng đến thị trấn để bán; và nếu gặp một bà già nào đó hỏi mua thì đừng lấy tiền bà mà hãy nói: "Bà có cái gì thì đưa cho tôi." 

     Ông già mang ngọc trai ra thị trấn và gặp một bà già. Bà lão nói: “Bán cho tôi đồ trang sức!” “Bà cứ mua.” “Bao nhiêu tiền?” “Bà có vật gì thì đưa vật đó.” Bà đưa cho ông một con mắt. Ông mang mắt về cho cô gái. Sau đó cô bắt đầu thêu một chiếc khăn tay bằng một con mắt. Một lần nữa, ông già mang đồ trang sức đến thị trấn. Bà lão lại nói: “Bán cho ta đồ trang sức!” “Mua đi.” “Bao nhiêu tiền?” “Bà có cái gì thì đưa đây.” 

     Bà đưa cho ông con mắt còn lại và ông mang mắt về cho cô gái. Sau đó, bằng hai mắt, người thợ thêu bắt đầu thêu những chiếc khăn đẹp hơn. 

     Ông già nói: “Có một dạ tiệc ở cung đình.” Cô gái nói: “Ông già tốt bụng, hãy đến bữa tối ấy, mang theo một cái bình, để ông có thể xin một ít súp cho tôi.” 

     Cô buộc một chiếc khăn tay do chính cô thêu trên cổ của ông già. Khi hoàng tử thấy chiếc khăn tay trên cổ ông già, anh ta kêu lên: “Ông già, ông từ đâu đến?” “Từ trang trại gần rừng kia, thưa hoàng tử; và có một cô gái sống ở nhà tôi, vậy làm ơn cho cô ta thứ gì đó vào cái bình này. ''Nhưng, ông già, ông lấy chiếc khăn tay đó ở đâu vậy?''  “Cô ấy đã thêu nó.” Hoàng tử ngay lập tức nhận ra cô gái nhờ tấm khăn thêu: “Đúng là cô ấy!” 

     Sau đó Hoàng tử cho người mang cô gái ấy về để chăn lợn. 

     Câu chuyện chỉ có thế.

 

&&&

 

Sơ lược về tác giả 

Albert Henry Wratislaw (5 tháng 11 năm 1822 - 3 tháng 11 năm 1892) là một giáo sĩ người Anh và học giả Slavonic người gốc Séc. 

 Ông chuyên nghiên cứu văn học Xla-vơ (Slavic literature)(1), là tác giả cuốn sách truyện dân gian Slav “Sáu mươi câu chuyện dân gian từ các nguồn Slavonic độc quyền” vào năm 1889. Cuốn sách bằng tiếng Anh là một tập hợp các câu chuyện cổ tích và truyện dân gian từ nhiều vùng khác nhau. Bản thân Wratislaw cho biết: Những câu chuyện này được dịch từ ngôn ngữ của cư dân Slavonic của gần 3/4 người Bohemia (2), người Séc. 

Vào kỳ nghỉ dài năm 1849, ông đến thăm Bohemia và học tiếng Séc ở Praha. 

Sixty Folk-Tales được dịch từ các ngôn ngữ Slavonic là bộ sưu tập đầu tiên và duy nhất của ông về văn học dân gian Slav, và được xuất bản chỉ hai năm trước khi ông qua đời. 

&&& 

(1) Ngữ tộc Slav là một nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ấn-Âu, xuất phát từ Đông Âu. Nhóm này bao gồm vào khoảng 20 ngôn ngữ và tập trung tại Đông Âu và Nga. (Theo: vi.wikipedia.org.) 

(2) Bohemia hay Čechy (tiếng Séc: Čechy; tiếng Đức: Böhmen, tiếng Ba Lan: Czechy) là một khu vực lịch sử nằm tại Trung Âu, chiếm hai phần ba diện tích của nước Cộng hòa Séc ngày nay.  (Theo: vi.wikipedia.org.)

Thứ Hai, 27 tháng 6, 2022

Another Vulgar Story - Nguyễn Khắc Phước dịch “Lại Một Chuyện Thô Tục”, truyện ngắn của Nguyễn Quang Lập.

Another Vulgar Story

By Nguyen Quang Lap

Translated by Nguyen Khac Phuoc

 

Doan left elementary school when he finished fifth grade and started learning how to drive tractors. He was my elder brother’s friend, so he used to let me sit on his tractor several hours a day, and I was very proud of it.

 

One day, I asked him whether driving a tractor was difficult. He said, “Not at all. It needs the knowledge of a first-year school student, but I have finished my fifth year, so I am wasting my knowledge.” At noon, he asked me to run home to fetch his lunch food. If I did so, he would show me a ‘flower’(1). Of course, I did what he told me.

 

I expected him to show me a true “flower,” but instead, he only drew an upside-down triangle with a dot in the middle and said, “This is a flower.” I asked him why he included a dot, and he claimed it made the picture look like a flower. I disagreed and pressed him for an explanation about the dot. He burst out laughing and told me to wait for the answer until he got married. It turned out that, at the age of 21, he had never actually seen a real “flower” before. He didn’t even know whether it was horizontal or vertical. He had just lied to me all along.

From that time on I took for granted that a ‘flower’ was an up-side-down triangle.

 

 

A year later, likely during the first month of summer, the militiamen of Dong Duong Village, where I had been evacuated, captured a foreign woman pilot, who was believed to be Australian. At that time, a captured pilot was considered more valuable than gold. Upon hearing the news, the district armed forces promised to reward the militiamen with a cow.

 

A militiaman was sent to the district armed forces to report the news, while the woman pilot was taken to a warehouse under close surveillance. I spent the entire day in the warehouse, watching the woman pilot attentively, without neglecting my duty or feeling tired.

 

The militiamen waited until late afternoon, but the district armed forces never arrived. Bored, one militiaman remarked, “This woman is big, so her pussy must be big too. Let’s strip her to see.” The others quickly agreed and tried to force her to lie down. The pilot, terrified, turned in circles to evade them, likely fearing for her life. One militiaman aimed his gun at her and shouted, “Stay still or I’ll kill you. Let me see how dangerous the invaders are.” Although he spoke Vietnamese, she seemed to understand and lay still as they stripped off her trousers and scrutinized her closely.

I didn't see anything, not even the upside-down triangle, just a patch of fair pubic hair up to her navel. A militiaman used a branch from a casuarina tree to lift the hair patch but found nothing.

From that time until seventh grade, I wondered why the "flower" I saw was depicted as an upside-down triangle and a dot. Once again, I discovered they had all lied.

Last night, Su argued with Tra that literature must reflect reality. I used to believe Su was right, so I did everything he told me. But now, I remember the old story and realize that Su is wrong.

You have been misleading me, Su. A triangle is a triangle, and a hair patch is a hair patch. They are not the same.  Hoo hoo hoo!



Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2022

ABOUT MY LOST FRIEND NHIEN TAT NGUYEN - A Memoir by Thy Le Trang - Translated by Phuoc Khac Nguyen


ABOUT MY LOST FRIEND NHIEN TAT NGUYEN

Memoir by Thy Le Trang

English Translation by Nguyen Khac Phuoc



Whenever I remember my time as a student or hear someone mention one of my close friends who has passed away, my heart is filled with regret.

Nhien Tat Nguyen passed away a long time ago as far as we know. Despite my repeated plans to write about him, I could not get around to it due to a combination of busy work schedules and my reluctance to pick up a pen. I often gripe to my friend Little Hong that my writing has been stale for a while and that my age is reflected in it.

Despite going to the same Ngo Quyen High School, Hai Hoang Nguyen (whose real name is Nhien Tat Nguyen) and I frequently got together at the Huynh Hiep bookstore.

At that time, we were both in the Sixth Grade. I enjoyed writing poetry as a child and wanted to be a poet. Under various pseudonyms, I attempted to write for teen magazines like La Xanh, Tuoi Tre, Tuoi Hoa, and Tuoi Xanh, etc. Therefore, I would often visit Huynh Hiep's bookstore in the afternoons to purchase magazines from Saigon. So did Nguyen. We quickly paid for the magazines and eagerly opened them to read, wondering whether our articles were published or still in the waiting section. As usual, some were answered, and some were published, but we were all pleased because school-age children still had a lot of hopes and dreams.

Studying while writing poetry and hanging out were my high school days. A lot of people were astonished to learn how I managed to maintain my romantic and poetic spirit while hanging out with my rowdy friends, who went by the nickname "Ngu Quy" (Five Devils).

Nguyen often asked me that question when he met me at school.

Little Ba drew me away and gave him a menacing glare just as he was about to brag about a recently composed poem or short story. He merely laughed, clasped his hands, and made a few bows before walking away. He just chuckled, then clasped his hands to bow a few times and left.

The school year of the fourth grade (Freshman in the USA) was the most memorable time for me.

Even though I was busy completing a spring magazine for the fourth grade, I also participated in submitting articles for the spring magazine of Ngo Quyen School.

I was really happy and proud when my article was awarded the first prize in literature by the teacher council, equal to an article written by a student from the first grade (senior). I don't remember his name; I only remember his flowery sentence: "My kite began to grow thorns in my soul, flying with sorrow soaked with tears in a dream." Because his father had still not returned at that time of year when the bead tree flowers were in full bloom.

The prizes for my article were a book of poems by Thien Cong Pham and a Chinese fountain pen.


At the end of the year, Ngo Quyen School had an extremely exciting atmosphere. Nguyen went to every class to find a female role to play alongside him in a comedy he wrote and directed in order to prepare for the school performance. When he arrived at my class, my classmates at the first table greatly embarrassed him.

Although many of the students in my fourth-grade class were known for being extremely studious, they were also known for being as lively as anyone after school.

He frowned and complained, got rid of the hard questions, and walked down to the last table where I was seated. "Too bad, too bad," he uttered, "I can not find anyone deserving of a role in my play. Please help me.” “What kind of role is it that is too hard to find an actor to play?” I enquired. "The role of a resentful wife who frequently mistreats her husband," Nguyen replied.

"Am I bad-tempered enough to play the role?" Little Ba, who was seated next to me, asked. "Oh, that is great." He had a smile on his face and appeared extremely happy.

He was forced to accept one condition by Ba and Luu:

After each play, he had to give each of us a cup of iced green beans and cake, as well as a ticket to Bien Hung Cinema. He nodded in agreement that the play needed to succeed.

The story, which took place in a city and featured a wife as fierce as a Ha Dong lion, was a sort of Phi Thoan's comedy. Although he was terrified of his wife, the husband also did not want to look foolish in front of his brother. Upon his brother's visit from the country, he pleaded with his spouse to act like a submissive wife.

The wife initially agreed. But the wife could not accept the husband's request because it was so absurd. Ultimately, the woman delivered a severe beating to her husband. Naturally, Little Ba played the wife, Nguyen played the husband, and a boy from Nguyen's class played the brother. The role of a prompter was given to me.

Everything went well during the first week. Nguyen happily handed each of us a bowl of green beans and a movie ticket. Movies would be screened in the mornings at Bien Hung Theater back then, and then a cai luong musical theater group would perform.

Luu knew actors and artists by heart because she was passionate about performing arts and their personal lives. Luu drew us all into the backstage area to see the artists' faces because of her insatiable curiosity. At first, Nguyen refused, but then he also joined us for fun.

We had a conversation with My Chau and Minh Phung, the actors, and even got their autographs and pictures.

Nguyen, I found out, had a sense of humor and a small amount of dramatic talent. During the rehearsal, he used to tell jokes to make us laugh.


Forty years have gone by, but I can still picture him and Little Ba running around the classroom practicing our drama, or the scene where he held his stomach while laughing and shaking his head at Little Luu for making a swear.

Nguyen's friend gave up on the day of the performance, which caused him to regret and sigh with a distorted face. Little Ba also lost interest because she was worried that she would not get the chance to perform in front of her friends and teachers. I was forced to take a risk by agreeing to perform in the play after witnessing their difficulties.

"Let me play the role,” I said. My hoarse voice was good enough to play a man, but what about my long hair? That could be resolved immediately.

As a man from the countryside who went to the town, I had to wear traditional costumes with a long dress and a turban, so my hair was curled up and hidden inside them. Playing this role was not difficult because I was a prompter, so I already knew the play by heart. My legs were shaking with nervousness, not knowing how Nguyen and Ba felt. As soon as I stepped out on the stage, I heard the audience roar with laughter, perhaps because of the beard Mr. Hai drew on my face. Luckily, my grandfather's spectacles prevented me from seeing anything beneath the stage. Thanks to that, I regained my spirit and acted very naturally. 

The performance was successful. All of my friends praised me. With a loud smile, Little Luu said, "Oh my god, you guys acted so funny."

Ms. Bich Loan Ha, who is known as a difficult teacher, also laughed to tears. Nguyen gave her a thumbs-up sign, raising his eyebrows to show his pride. Little Ba patted him on the shoulder and said, “Next time, will you please remember to invite me to take part in your play, OK?” Nguyen clasped his hands in front of his chest and bowed his head. "Oh, my Buddha! I'm afraid of women.” “Why are you afraid? You have a lot of fun hanging out with us,” Ba said. “Yes, it's fun but it's too expensive... Bye...bye...”



In the school year of the Third Grade (Sophomore), Nguyen and the members of White Cloud, Dinh Thien Phuong, Hoang Thy Linh, and Da Ta—the literature and poetry clubs—met at my home. I had read the journal Mach Tho many times, but I had never met the editors before. It was a handwritten journal that was passed around among literature lovers. I liked the "Debris and Quiet Days" section.

The title also sounded cute. Who of us in daily life did not have pieces of thought to share? I was very happy to join the Mach Tho Group. 

 Nguyen used to come over to my house by himself and boast about his new poems or discuss his plans for the future. He was sometimes irritable and quick to become upset, according to several people. I hadn't seen him in those situations so I didn't know. I only knew that sometimes he was silly, like a child.

During that period, Charlot's silent films were frequently aired on South Vietnamese television at noon on the weekends. He arrived at my house while we were all watching a movie and the doors were shut. He didn't call; he just quietly opened a window, stood hugging the mullions, and watched the movie passionately. Whenever there were hilarious scenes, he waved his hands and laughed so loudly that he was thought to be suffocating. When the movie ended, he just went inside the house. My younger brother has since given him the nickname "Stop Breathing". Whenever he saw him from afar, he squealed loudly, “Stop breathing, Cuc.” 


During the first grade (12th grade) academic year, Mr. Hai oversaw the Ngo Quyen High School press department. One night, he hurried to my house. “Help... help! Please help me quickly, Cuc.” 

His story was that the school magazine was about to be printed but the number of pages was not enough. He asked me to write a short story. Luckily, I had some free time, so I was ready to help him. In his view, during that time of the year, the press criticized Ngo Quyen Spring Magazine: The literature and poetry were sentimental, not normal. However, he happily patted his thigh and laughed, saying that, compared to other spring magazines, his school one was still far ahead. 

After graduating from school, I rarely saw him. He would stop by occasionally to tell me about his poems that had been set to music or to show me the manuscript of the short stories he had written. The last time he came, he gave me the piece of music “Em Hiền Như Ma Soeur (You Are As Gentle As Ma Soeur) with his autograph. My lovely friend Thu Thanh Pham came to mind when I was reading this song. Was it her meek appearance and soft eyes that had once aroused him too?

I had no knowledge of Nguyen or the Mach Tho Group after 1975. The regime changed, and lives changed, too.

Everyone was busy making a living in miserable and worrisome conditions. A few years later, I heard that he and his family had crossed the border and were safely settled in France. In March 1992, I went to America. A few months later, Little Hong from Georgia called me at midnight. “Hey, have you heard this bad news?  Hai Hoang Nguyen passed away.” 

When I just came to the US, there were not many Vietnamese people in the place where I lived, and there were no newspapers, so I didn't get any news. Hong lived in a big city, and there were a lot of Vietnamese people, so if she had any news, she always let me know.

Both of us were in deep sorrow for him—a multi-passionate man who ultimately used tranquilizers to end his own life. 

In 2005, during a conversation with Ba, she asked me, “Was 'Hai Rom' (Skinny Hai) Nhien Tat Nguyen?” It turned out that since the day she got married, Ba had little contact with her friends, so she didn't know anything about him. “Oh my God, I love Nhien Tat Nguyen’s poetry but didn't expect him to be Hai Hoang Nguyen,” said Ba. She finally let on, “I didn't expect the life of the guy who played my husband to be so short.” 

In November 2007, I decided to return to Viet Nam after nearly sixteen years of separation. This return trip included both Hong and Sang. Our plan was to see Teachers and friends again. By the way, Hong was on familiar terms with Phuong Thien Dinh, his wife, and the White Cloud Group. I also wanted to see the members of the old Mach Tho Group, so I asked Hong to contact them and invite them all to join the friendly meeting. In my heart, I wanted to see my friends in the Mach Tho Group again to remind me of my lost literary friends: Da Ta, Linh Thy Hoang, and Nhien Tat Nguyen. A friend of mine in San Jose told me that Mr. Hoang had passed away. Mr. Hoang did not attend the meeting even though the information was untrue. It was more regrettable that I did not have the opportunity to talk to him about the past as planned. 

To keep my promise to Mr. LS Dat, the president of the Bien Hoa Friendship Association, this article is about Nhien Tat Nguyen and the memories of a time we participated in literature and theatre activities under the dear roof of Ngo Quyen Public High School. The article is an incense stick in memory of the deceased. Somewhere in peace, I believe he is smiling - not a scornful, arrogant smile but an innocent, carefree smile of school age.

 

THY LE TRANG

(Massachusetts)

English Translation by Nguyen Khac Phuoc


 

VỀ NGƯỜI BẠN ĐÃ MẤT: NGUYỄN TẤT NHIÊN 

Thy Lệ Trang 

 

Lòng tôi luôn cảm thấy bùi ngùi mỗi khi nghĩ về những kỷ niệm học trò đã qua hoặc khi nghe ai đó nhắc đến tên những người bạn thân quen đã ra người thiên cổ. 

 

Tôi biết tin anh Nguyễn Tất Nhiên qua đời đã lâu. Dự định viết về anh nhiều lần, nhưng tôi cứ chần chừ... chần chừ... rồi không thực hiện được. Một phần vì bận rộn công việc làm, một phần vì ngại cầm lại bút. Tôi vẫn than phiền với nhỏ Hồng rằng vì lâu quá không viết nên văn chương có thể khô cằn như tuổi già của đời mình.

  

Tuy anh Hải (Nguyễn Hoàng Hải là tên thật của Nguyễn Tất Nhiên) và tôi học chung trường Trung học Ngô Quyền, nhưng chúng tôi lại quen nhau ở một địa điểm khác: nhà sách Huỳnh Hiệp. Lúc đó cả hai đang học lớp Đệ Lục. Thời con nít thích làm thơ-viết văn, tập tành làm văn thi sĩ. Tôi cặm cụi viết cho nhiều tờ báo như Tuổi Xanh, Tuổi Trẻ, Tuổi Hoa, Lá Xanh... với nhiều bút hiệu khác nhau. Do đó mỗi chiều tôi hay ra nhà sách Huỳnh Hiệp đón báo từ Sài Gòn mới về để mua. Anh Hải cũng vậy. Chúng tôi háo hức vừa trả tiền xong là vội vàng mở ra xem ngay, muốn biết bài của mình đã được đăng chưa hay còn nằm trong mục chờ đợi. Dĩ nhiên có bài được đăng, có bài không được trả lời nhưng chúng tôi rất vui vì tuổi học trò có nhiều ước mơ và hy vọng.

 

Vừa học vừa làm thơ vừa quậy phá. Đó là thời Trung Học của tôi. Rất nhiều người ngạc nhiên đã hỏi làm sao tôi có thể giữ tâm hồn thi văn lãng mạn trong khi chơi với đám bạn bè thực tế ồn ào nổi danh Ngũ Qủy. Anh Hải cũng hay đặt câu hỏi đó. Nhiều lần gặp tôi tại trường, anh định khoe về một bài thơ hay một bài văn mới sáng tác thì nhỏ Ba đã kéo tôi đi và trừng mắt nhìn anh hăm dọa. Anh cười khì khì, hai tay chấp lại xá xá vài cái rồi dông mất. 

 

Năm học Đệ Tứ - đó là năm học đáng nhớ nhất của tôi. Dù bận rộn hoàn thành tập san Xuân cho lớp Tứ Ba, tôi cũng tham gia gửi bài cho báo Xuân Ngô Quyền. Rất vui mừng và hảnh diện khi bài của tôi được Thầy Cô trao giải nhất văn chương đồng hạng với một bài văn của anh học Đệ Nhất.Tôi không nhớ anh tên gì chỉ nhớ bài viết của anh rất dễ thương: "Con diều của tôi bắt đầu mọc gai trong hồn và chở sầu bay sướt mướt trong mơ". Bởi vì năm đó hoa soan đã nở mà bố anh vẫn đi biền biệt không về. Giải thưởng cho tôi:quyển tập thơ của Phạm Công Thiện và một cây bút máy Trung Quốc. 

 

Những ngày cuối năm kh̀ông khí trường Ngô Quyền rất náo nhiệt. Để chuậ̉n bị văn nghệ cho trường, anh Hải đi đến từng lớp để t̀ìm một vai nữ đóng cặp với anh trong ṃ̀ột hài kịch do chính anh sáng tác và đạo diễn. Anh đến lớp tôi bị các bạn bàn trên quay quá cỡ. Lớp Tứ Ba của tôi nổi tiếng có nhiều bạn học rất giỏi nhưng ngoài giờ học cũng lém lỉnh không kém ai. Thoát khỏi những câu hỏi hóc búa, anh đi xuống bàn cuối nơi tôi ngồi nhăn mặt than phiền: Khổ qúa, khổ quá, tìm hòài không ra. Tôi hỏi: Vai gì mà khó tìm người dữ vậy? 

-Vai một người đàn bà hung dữ chuyên môn ăn hiếp chồng. 

Nhỏ Ba ngồi cạnh tôi mở miệng hỏi: Dữ cỡ tao đóng được không? 

-Được được lắm. Anh mừng quá, mặt cười hớn hở. 

 

Thế là nhỏ Ba và nhỏ Lưu bắt phải chấp nhận một điều kiện: Sau mỗi lần tập kịch anh phải bao bọn tôi một chầu nước đá đậu xanh bánh lọt và một chầu phim ở rạp Biên Hùng. Để vở kịch của mình được hoàn thành, anh gật đầu chịu hết. Đó là một loại hài kịch kiểu Phi Thoàn, nói về chuyện anh chàng ở thành phố có một bà vợ dữ như sư tử Hà đông. Sợ vợ nhưng không muốn mất mặt trước anh ruột của mình. Nhân ngày ông anh ở nhà quê lên thăm, anh ta năn nỉ vợ gỉả bộ đóng vai trò người vợ hiền thục biết vâng lời chồng. Người vợ đồng ý. Nhưng những yêu sách kỳ cục, tức cười của ông chồng làm chị vợ không dằn được. Cuối cùng chị vợ đã nện cho anh chồng một trận đòn nên thân.

 

Dĩ nhiên anh Hải đóng vai người chồng, nhỏ Ba đóng vai người vợ và một người bạn học cùng lớp với anh Hải đóng vai người anh. Tôi được giao nhiệm vụ làm người nhắc tuồng. Tuần lễ đầu êm xuôi, tất cả đều diển biến tốt đẹp. Anh hí hửng bao bọn tôi một chầu đậu xanh bánh lọt và một chầu phim. Nhằm lúc đó rạp hát Biên Hùng xuất sáng chiếu phim, xuất trưa trình diễn cải lương. Nhỏ Lưu rất rành về sân khấu kịch nghệ, đời tư nghệ sĩ, tài tử nào nó cũng thuộc nằm lòng. Với bản tánh tò mò hay phá phách, nhỏ Lưu rũ cả bọn leo vào hậu trường xem mặt các nghệ sĩ. Lúc đầu anh Hải từ chối, nhưng sau đó ham vui cũng tham gia.

 

Chúng tôi đến trò chuyện với các nghệ sĩ Mỹ Châu, Minh Phụng và còn bày ̣đặt xin hình và chữ ký của họ nữa. Một điều tôi nhận thấy anh Hải có óc nghệ sĩ và khiếu khôi hài. Trong thời gian tập kịch, anh hay kể chuyện tiếu lâm chọc cười bọn tôi. Cho đến bây giờ - bốn mươi năm qua rồi - mà tôi vẫn còn nhớ hình ảnh anh và nhỏ Ba rượt đuổi nhau chạy vòng vòng trong phòng tập; hay cảnh anh ôm bụng vừa cười vừa lắc đầu khi chọc cho nhỏ Lưu chửi thề.

 

Gần tới ngày trình diễn, ông bạn của anh bỏ cuộc, báo hại anh mặt mày méo xẹo, than vắn thở dài, còn nhỏ Ba cũng mất hứng tức mình vì sợ không có cơ hội diển xuất cho thầy và các bạn xem. Túng quá tôi phải gồng mình hy sinh: -Để tôi đóng cho. Giọng nói khan khan của tôi đóng vai đàn ông được rồi nhưng tóc tôi dài thì sao? Chuyện đó giải quyết được ngay. Vì thủ vai đàn ông ở nhà quê lên tỉnh, tôi phải mặc áo dài khăn đống, do đó tóc tôi cuộn tròn dấu phía trong. Nhận vai này không khó khăn, vì tôi là người nhắc tuồng nên đã thuộc làu vở kịch. Không biết tâm trạng anh Hải và nhỏ Ba ra sao chứ riêng tôi rất hồi hộp và rất run. Vừa bước ra sân khấu tôi đã nghe tiếng cười vang trời có lẽ vì bộ râu anh vẽ cho tôi. Cũng may nhờ  cặp mắt kiếng gìa của ông Ngoại anh nên tôi không thấy gì ở phía dưới sân khấu cả. Nhờ đó mà tôi lấy lại tinh thần và diễn xuất rất tự nhiên.

 

Vở kịch thành công. Bạn bè đứa nào cũng khen ngợi. Miệng nhỏ Lưu oang oang: -Trời ơi, tụi mày diễn vui qúa, khó tánh như cô Hà Bích Loan mà còn cười chảy nước mắt. Anh Hải đưa ngón tay cái lên, chân mày nhương nhướng như có vẻ tự hào. Nhỏ Ba vổ vai anh: -Kỳ sau nhớ rủ tao đóng kịch nửa nghe mậy. Anh chấp hai tay để ngay ngực, cúi đầu: -Mô Phật tui sợ mấy bà qúa. -Sợ gì, đi chơi vui thấy mồ. –Vui thì vui nhưng hao qúa, thôi bye...bye...

 

Năm Đệ Tam, anh cùng các anh Mây Trắng, Đinh Thiên Phương, Hoàng Thy Linh, Đa Tạ lên nhà tôi. Đọc tập san Mạch Thở nhiều lần nhưng bây giờ tôi mới biết mặt các anh trong ban biên tập. Đó là một tập san viết bằng tay và chuyền cho các bạn yêu văn nghệ xem. Tôi thích mục "Mảnh vở và ngày tháng trầm lặng". Cá́i tựa nghe cũng dể thương. Mỗi chúng  ta trong cuộc sống hàng ngày ai laị không có những mảnh vụn suy tư để chia sẻ. Tôi rất vui khi được gia nhập vào nhóm Mạch Thở. Anh Hải thường lên nhà tôi một mình để khoe về những bài thơ mới hay nói về những dự tính trong tương lai. Nhiều người nói anh có tật xấu như nóng tánh, dêễ nổi giận. Tôi chưa chứng kiến cảnh đó nên không biết; chỉ biết một điều là đôi lúc anh ngu ngơ như trẻ con. Dạo ấy Truyền hình miền Nam hay chiếu phim câm Charlot vào trưa cuối tuần. Anh đến nhà tôi lúc mọi người xem phim, tất cả các cửa đều khép kín. Anh không gọi, chỉ lặng lẽ mở một cánh cửa sổ, đứng ôm song cửa sổ xem phim say sưa, đến những đoạn hấp dẫn anh vung tay cười thật dòn, cười nhiều đến nổi tưởng chừng như ngộp thở. Khi phim chấm dứt, anh mới chiụ vào trong nhà. Cũng từ đó thằng em trai tôi đặt biệt hiệu cho anh là 'Tắt Thở'. Mỗi lần nhìn thấy dáng anh từ xa là nó đã kêu réo om sòm: -Chị Cúc, có anh 'Tắt Thở' đến.

 

Hình như năm Đệ Nhất anh Hải là trưởng ban báo chí trường TH Ngô Quyền. Một đêm anh chạy lên nhà tôi: -Cứu nguy, cứu nguy... Cúc mau giúp anh. Số là báo trường sắp lên khuôn mà số trang bài viết chưa đủ. Anh nhờ tôi viết cho ṃột truyện ngắn. Cũng may đang lúc rảnh rang nên tôi sẵn sàng. Năm đó. theo anh, báo chí phê bình báo Xuân Ngô quyền: văn và thơ ủy mị, không được bình thường. Tuy nhiên anh rất vui, tay vỗ vào đùi và miệng cười ha hả bảo rằng nếu so với báo xuân trường khác thì trường mình vẫn vượt xa. 

 

Sau khi rời trường tôi ít gặp anh. Họa hoằn lắm anh ghé lại một chút báo tin về những bài thơ anh được phổ nhạc hay cho xem bản thảo truyện ngắn anh viết. Lần cuối cùng anh đến tặng tôi bản nhạc “Em hiền như Masoeur” có chữ ký của anh. Đọc bản nhạc này, tôi liên tưởng đến cô bạn xinh xắn của tôi Phạm Thị Thanh Thu. Phải chăng anh cũng đã từng xao xuyến trước ánh mắt và dáng dấp nhu mì của nhỏ?

 

Sau năm một chín bảy năm, tôi hoàn toàn không biết gì về anh Hải và nhóm Mạch Thở. Chế độ thay đổi, cuộc sống thay đổi. Mọi người ai cũng lo kiếm sống, khốn khó và suy tư nhiều hơn. Vài năm sau tôi nghe tin anh và gia đình vượt biên và đã được định cư an toàn tại Pháp. Tháng ba năm 1992 tôi sang Mỹ. Vài th́áng sau nhỏ Hồng từ Georgia gọi tôi vào lúc nửa ̣đêm: -Ê, hay gì chưa? Nguyễn hoàng Hải chết rồi!

 

Tôi mới tới Mỹ, nơi tôi ở không có người VN nhiều, báo chí không có nên tôi không biết gì cả. Hồng ở thành phố lớn, người Việt đông nên có tin gì nhỏ cũng cho tôi hay. Cả hai chúng tôi bùi ngùi cho anh -một người có nhiều đam mê -cuối cùng lại tự kết liểu đời mình bằng những viên thuốc an thần.

 

Năm 2005, trong lần nói chuyện với nhỏ Ba, nó đã hỏi tôi: -Có phải 'Hải Ròm' là NTN không? Thì ra từ ngày lấy chồng, nhỏ Ba ít liên lạc với bạn bè nên không biết. -Trời ơi, tao mê thơ NTN mà không ngờ nó là NH Hải. Cuối cùng nó cũng buông thòng một câu: -Không ngờ thằng đóng vai chồng tao lại vắn số như vậy.

 

Tháng 11-2007, tôi quyết định về thăm VN sau gần mười sáu năm xa cách. Chuyến về này có cả Hồng và Sáng. Dự định của chúng tôi là gặp lại Thầy, Cô, bạn bè. Nhân tiện Hồng có quen với vợ chồng anh Đinh Thiên Phương và Mây Trắng, tôi cũng muốn gặp lại các anh trong nhóm MT ngày xưa nên nhờ Hồng liên lạc mời các anh đến chung vui trong cuộc họp mặt thân tình. Trong thâm tâm, tôi muốn gặp lại các anh trong nhóm Mạch Thở để nhắc nhở về những người bạn văn nghệ đã mất: Đa Tạ, Hoàng Thy Linh, và Nguyễn Tất Nhiên. Một người bạn của tôi ở San Jose đã cho tôi tin anh Hoàng Thy Linh đã qua đời, không ngờ đó là tin thất thiệt, vì vậy buổi họp mặt không có anh Linh. Càng ân hận hơn là tôi không có cơ hội để trò chuyện với anh về chuyện ngày xưa như dự định.

 

Để giữ lời hứa với anh LS Đắt -hội trưởng hội Ái hữu BH, tôi đã viết về anh Nguyễn Tất Nhiên, về những kỷ niệm một thời làm văn nghệ dưới mái trường thân thương Trung học Công Lập Ngô Quyền. Bài viết như một nén nhang tưởng niệm người đã khuất. Ở môt nơi bình an nào đó, tôi tin rầng anh đang mỉm cười, không phải nụ cười khinh bạc, ngạo mạn mà là nụ cười hồn nhiên, vô tư của tuổi học trò. 


THY LỆ TRANG

 


 


Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2022

LƯỢM LẶT MỘT SỐ THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ, CÂU CÁCH NGÔN HAY TRONG HÁN TỰ - Sưu tầm

 


1-無 古 不 成 今Vô cổ bất thành kim: Không có xưa thì không có nay

2-格物致知 Cách vật trí tri: Truy cứu tới cùng cái lí của sự vật.

3- 己所不欲, 勿施於人Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân: Cái gì mình không muốn, thì đừng làm cho người.

4-知彼知己, 百戰不殆 Tri bỉ tri kỉ, bách chiến bất đãi: Biết địch biết mình, trăm trận đánh không sợ thua.(còn nói là :百戰百勝 bách chiến bách thắng)

5-運去 金成 鐵, 時 來 鐵 似 金Vận khứ kim thành thiết, thời lai thiết tự kim: Cái vận đi mất thì vàng thành sắt, còn lúc thời tới rồi thì sắt hoá thành vàng.

6-畫 虎 畫 皮 難 畫 骨知 人 知 面 不 知 心

Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt, Tri nhân tri diện bất tri tâm: Vẽ cọp chỉ vẽ da khó vẽ xương, Biết người biết mặt không biết lòng (Có dị bản là: “Tri nhân khẩu diện bất tri tâm”, chữ “khẩu” là một chữ lạc lõng !

7-貧 居 鬧 市 無 人 問,富 在 深 山 有 客 尋 Bần cư náo thị vô nhân vấn, Phú tại thâm sơn hữu khách tầm: Nghèo mà ở nơi phố chợ không ai hỏi tới, Giàu mà ở rừng sâu cũng có khách tìm (Có dị bản là: “Phú tại sơn lâm hữu viễn thân”, không đối bằng câu trên)

8-知行合一Tri hành hợp nhất: tri 知 và hành 行 phải đi đôi với nhau.

9-佛口蛇心 Phật khẩu xà tâm: Miệng Phât mà lòng rắn (Hay:”Khẩu Phật tâm xà”)

10-一笑千金 Nhất tiếu thiên kim: Một tiếng cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.

11-一字千金 Nhất tự thiên kim: Một chữ đáng giá nghìn vàng.

12-門當戶對 Môn đương hộ đố: iCổng và cửa nhà tương xứng. Ý nói nhà cửa, gia thế, địa vị hai gia đình cưới gả phải tương đương. (Nhiều người nói sai thành “môn đăng hộ đối”!)

13-百聞不如一見 Bách văn bất như nhất kiến: Trăm lần nghe nói tới không bằng một lần thấy tận mắt.

14-老蚌生珠 Lão bạng sinh châu: Con ngọc trai già mà còn có ngọc, ý nói cha con cùng có tài năng. (Sau chỉ người già được sinh con. Sau gọi đùa người đàn bà cao tuổi còn sinh con. )

15-含血噴人 Hàm huyết phún nhân: Ngậm máu phun người (Câu đầy đủ là”:Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khầu”: Ngậm máu phun người,dơ miệng mình trước)

16-仙風道骨 Tiên phong đạo cốt: Cốt cách dáng dấp của bậc tiên.

17-指雞罵狗 Chỉ kê mạ cẩu: Trỏ gà mắng chó. Nghĩa bóng: Chửi xéo, chửi bóng gió.

18-殺雞取卵 Sát kê thủ noãn: Giết gà lấy trứng. Tỉ dụ tham lợi nhỏ trước mắt mà làm hại tới lợi ích lâu dài.

19-割雞焉用牛刀 Cát kê yên dụng ngưu đao: Giết gà đâu cần phải dùng dao mổ bò.

20-聞 其 聲 見 其 形Văn kỳ thanh, kiến kỳ hình: Nghe tiếng ,thấy hình (Có người nói là “danh kỳ thanh, kiến kỳ hình” là không đúng. Kiến văn là thấy nghe)

Nguồn: 

FB Quy La (https://www.facebook.com/quy.la.545?fref=nf)

và nguyenho1415.wordpress.com