Trịnh Y Thư sinh năm 1952, tại Hà Nội. Tác phẩm đã xuất bản:
‘Đời nhẹ khôn kham’ (The Unbearable Lightness of Being), tiểu thuyết của nhà
văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera, tạp chí Văn Học xuất bản, 2002; ‘Căn phòng
riêng’ (A Room of One’s Own), lý luận văn học của nhà văn nữ Virginia Woolf,
Tri Thức xuất bản, 2009. ‘Người đàn bà khác’, tập truyện, Thế Giới xuất bản,
2010. Tác phẩm gần đây nhất của Trịnh Y Thư là ‘Chỉ Là Đồ Chơi’- tạp bút, Hợp
Lưu xuất bản. Ngoài ra, Trịnh Y Thư còn là nhà thơ và cầm thủ guitar xuất sắc.
Tình cờ tôi đọc được bài Đôi Điều Về Dịch Thuật của ông và
thấy có nhiều điều tâm đắc, xin gới thiệu cùng các bạn.
Đôi Điều Về Dịch Thuật
Trịnh Y Thư
1.
Trước khi nói đến dịch thuật, bạn hãy cho phép tôi đưa ra
một nhận định hết sức cơ bản và sơ đẳng như sau: Giữa bất kì hai ngôn ngữ dân
tộc nào không hề hiện hữu sự đồng dạng cùng chia sẻ một hệ thống phối ngữ biến
những kí hiệu ngôn từ hữu cơ thành những biểu hiệu có ý nghĩa. Nếu bạn chấp
nhận đó là định đề hay nguyên lí đã được chứng minh thì tôi có thể rút ra một
hệ luận dùng làm nguyên tắc chỉ đạo cơ bản cho công việc dịch thuật, đó là, nội
dung một dịch phẩm ít nhiều có thể bị thêm, bớt, hoặc sai lệch với nguyên tác.
Hầu hết các thể loại dịch thuật đều bị chi phối bởi nguyên tắc này, ít hơn ở
sách giáo khoa, khoa học thường thức và nhiều hơn ở bình diện văn học. Nếu bạn
đồng ý như thế, tôi có thể bảo dịch thuật văn học là sự tái tạo, hoặc sáng tác
lại, một tác phẩm văn học để cho nó một đời sống mới.
Rất có khả năng nó sẽ tái hiện ở một “đời sống mới”. Bốn
thành tố quyết định đời sống của tác phẩm là thời đại, nhà văn, tác phẩm và
người đọc; một dịch phẩm hiển nhiên phải có riêng nó một đời sống mới bởi nếu
dịch phẩm thành công thì chí ít năm mươi phần trăm những thành tố trên là mới.
Đời sống mới này đôi khi còn rực rỡ, trường tồn hơn đời sống “cũ” của nguyên
tác như trường hợp bản dịch Chinh Phụ Ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm; và, nhìn ở
góc độ nào đó, Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du cũng là tác phẩm dịch.
Trên các diễn đàn văn học đã có khá nhiều những nhận định
sâu sắc và giá trị về dịch thuật văn học. Tựu trung, có hai xu hướng: hoặc
trung thành với văn bản của nguyên tác; hoặc đặt trọng tâm vào yêu cầu tiếp
nhận của ngôn ngữ dịch. Theo tôi, ở thời đại của chúng ta, quan niệm đúng đắn
phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai xu hướng. Mặc dù những tôn chỉ chung chung
như tín-đạt-nhã kềm chế người dịch, không cho hắn sa đà, nhưng người dịch không
còn là kẻ “tra từ điển chuyên nghiệp” nữa. Có khoảng đất trống chừa cho hắn để
hắn phô diễn nét tài hoa trong sáng tạo của mình. Câu hỏi được đặt ra là khoảng
đất trống đó rộng rãi thong dong lắm không và có giới hạn nào không? Nếu bạn là
Bùi Giáng thì không giới hạn nào có thể ngăn trở bạn được. Bạn có thể “tương”
vào cả chục câu lục bát rất ư là Bùi Giáng ngay giữa mạch truyện của nguyên
tác. Sự can thiệp tới hạn của người dịch như thế hiển nhiên có thể làm nhiều vị
học giả nghiêm túc cau mày khó chịu. Riêng tôi, tôi thấy thú vị bởi tôi đang
thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải một cuốn sách y học. Nhưng
tôi không thể làm như Bùi Giáng, lẽ dễ hiểu bởi tôi không có văn tài độc đáo
như ông. Nói như thế, dịch phẩm sẽ mang diện mạo của người dịch và điều đó góp
phần không ít vào việc tiếp nhận của người đọc. Tôi không phủ nhận giá trị
những dịch phẩm nghiêm chỉnh tuân thủ từng câu, từng chữ, từng dấu chấm dấu
phết trong nguyên bản, nhưng tính Dionysian trong nghệ thuật bao giờ cũng hấp dẫn
hơn, quyến rũ hơn và tôi sẵn sàng hi sinh cái chân lí tuyệt đối (đôi khi rất vô
tích sự) để đổi lấy dăm ba nét linh diệu phù ảo của cái bất toàn.
2.
Song bạn có thể hỏi ngược lại tôi: “Đọc Mùi Hương Xuân Sắc,
tôi đâu muốn đọc Bùi Giáng, tôi muốn đọc Sylvie của Gérard de Nerval cơ mà. Chỗ
nào cũng thấy Bùi Giáng ‘lai rai phiêu hốt’ còn tác giả ra sao, văn phong như
thế nào thì chẳng thấy đâu.”
Văn phong hay phong cách trong văn học là đề tài lớn, chúng
ta từng nghe nhiều nhà phê bình nói đến. Tôi vốn dị ứng với lí thuyết văn học
nên không dám nói gì ở đây ngoại trừ định nghĩa cơ bản của cụm từ “phong cách
văn học.” Theo tôi, phong cách trong văn học giản dị là phương thức biểu đạt
nghệ thuật, nó tiêu biểu cho bản sắc sáng tạo của nhà văn. Nó chính là nghệ thuật của sáng tạo. Nhìn
rộng hơn, các nghệ sĩ lớn qua mọi thời đại đều có riêng cho mình cái phong cách
đặc trưng này và nó có yếu tính như một dấu ấn khắc họa chân dung nhà nghệ sĩ.
Claude Debussy và Maurice Ravel sinh cùng thời, đều là người Pháp, cùng sáng
tác dưới luồng sáng của nhạc phái Ấn tượng, nhưng nhạc của hai ông khác nhau
lắm, người nghe không thể nào lẫn lộn được. Đó là nhờ mỗi ông đều thành công
trong việc tự tạo cho mình cái dấu ấn đặc trưng. Đôi lúc tôi nghĩ nghệ thuật
phải chăng chỉ có thế, kẻ thành công lưu danh muôn thuở chẳng qua chỉ là kẻ có
cái tài năng vượt trội biết sáng tạo nên cái khác thường, độc đáo, mà sau khi
công bố người đời nhìn vào đều phải bật ngửa, ngẩn ngơ thốt lên, “Ủa, có dzậy
thôi mà hồi nào đến giờ mình hổng thấy cà?”
Phong cách trong văn học định đoạt tiềm năng nghệ thuật của
tác phẩm. Gustave Flaubert bỏ ra năm năm trời để viết cuốn Madame Bovary. Tác
phẩm ra đời đánh dấu khúc quành quan trọng trong văn học Pháp tiền bán thế kỉ
XIX. Ngoài sự kiện nó là cuốn tiểu thuyết “tâm lí” đầu tiên, chính phong cách
nghệ thuật của nó, nội dung cũng như hình thức, đã khiến nó được công chúng
nồng nhiệt đón nhận. Baudelaire bảo sau Balzac chính Flaubert là người bứt phá,
đập tan cái trì trệ của văn học Pháp lúc đó.
Nghệ thuật nằm ở cái “thần” của tác phẩm. Nắm bắt cái “thần”
đó trong nghệ thuật rồi tái tạo nó ở một tính thể khác, theo tôi, không phải là
chuyện bất khả nhưng nó đòi hỏi tài năng và sức làm việc khủng khiếp lắm. Tôi
đang nghĩ đến tác phẩm tiểu thuyết Lolita của văn hào Vladimir Nabokov. Trong
tác phẩm tiểu thuyết này Nabokov thuật một câu chuyện vô luân bằng thứ ngôn từ
phải nói là linh diệu. Cú pháp và thủ pháp sử dụng Anh ngữ của ông kể như vào
hàng cao thủ thượng thừa, chí ít cũng mười hai thành công lực. Tiếng Việt của
tôi cũng phải linh diệu như tiếng Anh của Nabokov để dịch tác phẩm này, nếu
không, tôi sẽ giết Nabokov mất vì tôi biến tác phẩm nghệ thuật của ông thành
chuyện dâm ô! Nhưng cái vi tế trong mỗi từ tiếng Anh, liệu tôi có thể tìm thấy
nét tương đương trong tiếng Việt không? Căn cứ vào định đề đặt ra ở phần vào
nhập của bài viết, câu trả lời là không và có lẽ tôi sẽ không công bằng với
Nabokov chút nào. Văn phong của Nabokov chính là cái linh diệu của ngôn từ ông
sử dụng trong ứng tác nghệ thuật. Thế nhưng nếu chỉ với bút pháp dịch thuật
linh diệu thôi thì đã đủ để lột tả phong cách văn học (nghệ thuật) của Nabokov
chưa? Tôi không biết bạn ạ, bởi nó thuộc về cái bất khả tư nghì mất rồi, tôi
phải dùng trực giác để định đoạt thôi và chưa chắc tôi đã thành công. Chữ nghĩa
nằm nơi tầng thứ nhất của tác phẩm, tầng thấp nhất, dễ tiếp cận nhất và cũng dễ
chuyển dịch nhất; sang tầng thứ hai, tầng chứa đựng cảm xúc, nếu khéo léo và
với nỗ lực tối đa, có thể tôi nắm bắt được; nhưng đến tầng thứ ba, tầng cao nhất,
nơi cái “thần” của tác phẩm ẩn nấp, của cái bất khả tư nghì thì tôi chỉ có cách
dùng trực giác mình để “tùy cơ ứng biến” mà thôi.
3.
Traduttore, traditore—dịch là phản. Dĩ nhiên, giữa hai nền
văn hoá bao giờ cũng hiện hữu những giá trị tương phản gần như nghịch lí, nhưng
càng ngày, do sự toàn cầu hoá cộng thêm sự bùng nổ của Internet, tính tương
phản ấy càng thu nhỏ. Hơn nữa, từ lâu tôi đã không xem ý nghĩa của nó là chân
lí. Ngược lại là đằng khác, bởi nó có tính thời thượng. Với tôi, nó chỉ có tác
dụng cảnh báo người dịch phải cẩn trọng tối đa bởi muôn vàn cạm bẫy cùng hầm hố
lúc nào cũng túc trực chờ đón người dịch để chôn vùi hắn nếu hắn cẩu thả, không
chịu khó tìm hiểu thấu đáo văn bản nguyên tác trước khi hạ bút. Tín-đạt-nhã. Ba
tôn chỉ người Trung quốc đặt ra cho công việc dịch thuật, tưởng đơn giản nhưng
quả thật không dễ dàng và con đường người dịch chọn lựa cho mình đi không rộng
rãi bằng phẳng chút nào.
Cách đây ít lâu tôi bạo gan dịch và xuất bản cuốn tiểu
thuyết The Unbearable Lightness of Being của nhà văn Tiệp Khắc Milan Kundera.
Thoạt nhìn vào nhan đề cuốn sách, hiển nhiên vấn đề quan trọng và gay go nhất
cho người dịch là làm thế nào để dịch từ “being” cho chuẩn và hay. Tôi đã mất
khá nhiều thời gian suy nghĩ tìm kiếm một từ tiếng Việt thích hợp cho nhan đề
của bản dịch. Khi tác phẩm khởi đăng nhiều kì trên tạp chí Hợp Lưu, tôi chọn
nhan đề “Nhẹ Kiếp Nhân Sinh” vì tôi thấy cụm từ “kiếp nhân sinh” có vẻ “ăn
khách vì hợp thời trang triết học hiện sinh” lắm. Trong đám bạn bè có người
thích nhan đề này. Tuy vậy tôi vẫn thấy có cái gì không ổn và tôi nhíu mày bảo
anh, “Nhưng nhan đề thiếu chữ Unbearable vốn quan trọng không kém và Kundera sẽ
không vui nếu ông ta biết tớ bỏ một chữ của ông ấy, làm sao bây giờ? Hay là cậu
cho tớ thêm chữ Khôn Kham vào thành Khôn Kham Nhẹ Kiếp Nhân Sinh nhá. Nghe như
câu lục của bài thơ lục bát ấy. Được không?” “Xì, tựa sách gì mà dài như chợ
Đệu, chẳng ma nào thèm mua đọc đâu.” Anh bạn tôi trề môi lắc đầu. Thế là sách
có nhan đề mới “Đời Nhẹ Khôn Kham” như bạn thấy. Từ “nhân sinh” biến thành
“đời” và Kundera, nếu biết, chắc chắn sẽ không vui bởi “being” với ông không
phải là “đời sống”! Ngay cả “nhân sinh” hoặc “hiện tính”, “hiện hữu”, “hữu
thể”, “thể tính”, “con người”, “thể chất”, “bản chất” và cả chục từ khác tôi
tìm thấy trong các từ điển Anh-Việt cũng không thể nào phù hợp một cách xác
thực với ý nghĩa Kundera muốn nói đến trong từ ngữ. Ông nói như sau về ý nghĩa
của từ “being” dưới nhãn quan siêu hình của ông: “… Nếu sau khi chết chúng ta
vẫn tiếp tục mơ, sau cái chết vẫn còn có cái gì đó thì cái chết không thể nào
giải thoát chúng ta ra khỏi nỗi kinh khiếp của cái being.” Đúng ra, ông mượn câu
độc thoại của Hamlet “To be or not to be” trong bi kịch Hamlet của
Shakespeare. “… Hamlet đưa ra vấn nạn về
cái being chứ không phải đời sống. Sự kinh khiếp của being là: Cái chết có hai
mặt. Một mặt là cái non-being, mặt kia là sự hiện hữu vật thể ghê sợ của cái
thây ma.”
Phải chi tôi được quyền dịch là “Khôn Kham Nhẹ Cái Bi-ing”!
thì đỡ khổ cho tôi biết mấy. Thôi, tôi đành phụ lòng Kundera vậy. Nếu người
dịch là kẻ bắc cầu giữa hai nền văn hóa thì cây cầu của tôi là cây cầu khỉ lắc
la lắc lẻo băng qua đại dương đầy sóng dữ.
4.
Bạn hỏi tôi tại sao chọn con đường dịch thuật. Không, tôi
đâu có chọn nó. Nó chọn tôi đấy chứ. Dịch mệt lắm. Dịch còn có nghĩa là sai
khiến. Với tôi, nó đồng nghĩa với “dịch vật”. Từ điển Hán-Việt của cụ Đào Duy
Anh định nghĩa “dịch vật” là “Sai khiến mọi vật, như dùng trâu cày dùng ngựa
cỡi.” Đôi khi người dịch chẳng qua chỉ là con trâu kéo cày, bảo gì làm nấy, đổ
mồ hôi, sôi nước mắt.
Và “dịch vật” nhất là dịch thơ.
Dịch một bài thơ có lẽ nhanh chóng hơn dịch một cuốn tiểu thuyết
nhưng chưa chắc đã dễ dàng hơn. Tôi không tin tưởng vào việc dịch thơ lắm mặc
dù trước đây tôi có lai rai dịch một số thơ của Yevgeny Yevtushenko, Boris
Pasternak, Czeslaw Milosz, Robert Frost . . . sang Việt ngữ, phần lớn là những
bài tương đối dễ dịch, dễ hiểu, không đòi hỏi chữ nghĩa ẩn mật hoặc tư duy siêu
hình. Có nhiều lập luận chống đối việc dịch thơ, phần lớn là của các nhà thơ.
Họ bảo bản dịch không bao giờ lột tả được trọn vẹn cái phong phú và ẩn mật của
chữ nghĩa trong nguyên tác. Quả tình tôi không rõ lắm, hoang mang là đằng khác,
và mỗi lần dịch thơ, tôi đều cảm thấy có cái gì bất ổn.
Nghệ thuật thơ là phương thức phối từ trong câu thơ khiến
cho ý thơ trở nên phong phú, tạo phong cách nghệ thuật, gây thú vị nơi người
đọc. Mỗi từ đứng riêng một cõi xem tầm thường vô vị nhưng khi kết hợp nhau nhờ
cây đũa thần của nhà thơ bỗng như mang sức mạnh truyền tải cảm xúc mạnh mẽ. Giở
ra một bài thơ nổi tiếng của một thi hào lớn nào đó, tôi thấy các từ ngữ ăn nằm
với nhau như các gam màu trên bức tranh tuyệt hảo và hồ như chúng chỉ có tác
dụng ở ngôn ngữ của nguyên tác thôi, khi chuyển sang ngôn ngữ khác, hiệu ứng đó
mất sạch. Tôi không rõ lắm, chỉ mơ hồ nhận biết như vậy. Nhưng bạn cứ để tôi
tiếp tục dịch bài thơ. Rồi nhạc tính trong thơ. Tôi phải cải biên tính nhạc của
bài thơ như thế nào để khúc giao hưởng hoành tráng tuyệt vời đừng biến thành
giai điệu tưng từng tứng tưng từng vô vị, gượng ép. Rồi cảm xúc của bài thơ—nếu
bạn theo tôi trèo lên tầng thứ hai của thi phẩm—sẽ ra sao nếu chúng ta cho nó
cái đời sống mới mà chúng ta o ép gán lên nó? Ngoại trừ những thể thơ cố tình
chối từ cảm xúc (mà từ lâu tôi ngưng theo dõi vì quá ngán ngẩm), phần lớn thi
ca của nhân loại đều mang nặng tính trữ tình. Ở đó, trĩu nặng đằng sau mỗi từ
ngữ, mỗi con chữ, là cả một khung trời, một mảnh đất, một dòng sông, một con
phố, một dung nhan, một tình yêu, một cành cây, một phiến đá, một ngôi nhà, một
thành quách, một đền đài, một kỉ niệm, một quãng đời, một lịch sử, một thời đại
đặc trưng mà khi chuyển ngữ chúng như bị lưu đày sang mảnh đất hoàn toàn khác
lạ. Những con chữ thốt nhiên hoảng loạn; chúng li tán, ngơ ngác, loạn xạ; lai
lịch chúng biến đâu mất, bản lai diện mục chúng không còn mà còn lại chỉ là
những xác chữ vô hồn. Bài thơ trở nên vô cảm. Tôi nhìn những từ ngữ đường bệ
hạnh phúc nằm bên nhau trong bài thơ nguyên tác bỗng thấy tội nghiệp cho chữ
nghĩa của tôi nhếch nhác buồn thảm như những khuôn mặt đám lưu dân vô tổ quốc
bên bài thơ dịch và tôi vò nát trang giấy rồi ném nó vào sọt rác.
Có lẽ tôi sẽ vẫn dịch thơ nhưng quả thật đó chỉ là công việc
của người học trò tập tành làm thơ.
5.
Các nền văn học dân tộc trên thế giới hầu hết đều có truyền
thống dịch thuật lâu dài. Nhiếu chứng tích thư tịch cổ cho thấy loài người đã
dịch từ khi có ngôn ngữ viết. Sự trưởng thành của nền văn học dân tộc nào cũng
kèm theo sự trưởng thành của các cao trào dịch thuật. Riêng ở Mĩ, xứ sở tôi
đang sinh sống, gần như không có tác phẩm nghệ thuật quan trọng nào không được
dịch sang Anh ngữ, từ Homer đến Đường thi, Hài cú. Thậm chí Tôn Tử Binh Pháp
của Tôn Tử viết từ thời Chiến Quốc bên Trung Hoa cũng có chí ít hai ba bản dịch
khác nhau. Tác phẩm của những nhà văn quan trọng ngoài dòng văn học những quốc
gia nói tiếng Anh đều có bản dịch bày bán cho công chúng. Đó là thành tựu to tát
xây đắp bởi nhiều thế hệ. Tri thức của nhân loại mấy ngàn năm bạn có thể đọc
hết chỉ cần bạn thông thạo Anh ngữ (và có thời gian).
Đó là những điều tôi chứng kiến, bởi thế tôi rất ngạc nhiên
khi bạn bảo tôi “… nước Mĩ, vì ít bị áp bức trong vấn đề tự do ngôn luận, nên
đã không có một truyền thống mạnh về dịch thuật.” Tôi không đồng ý chút nào về
lập luận này. Đúng hơn, dịch giả Mĩ là những người thầm lặng bị lãng quên. Tên
tuổi họ không ai biết đến. Họ là chuyên gia, mà chuyên gia thì xoàng quá, ai cũng
có thể làm được, chỉ cần chịu khó học hành và lao động. Đa phần người ta nghĩ
như thế. Lại tủ sách lấy xuống cuốn One Hundred Years of Solitude của Gabriel
García Márquez, tìm mãi tôi mới thấy tên dịch giả Gregory Rabassa nhỏ xíu nằm
khiêm nhường ở trang trong. Họ cũng ít ồn ào. Chẳng bao giờ bạn nghe tin một
dịch giả bị công an chính quyền độc tài bỏ tù vì những gì ông ta dịch. Bạn cũng
chẳng bao giờ thấy dịch giả đi diễn thuyết trước công chúng nói về những điều
trong dịch phẩm của ông. Ê, nếu tôi muốn biết tường tận về tác phẩm X thì tôi
tìm đến nghe tác giả nó nói chuyện chứ việc gì tôi phải nghe một người
second-hand như ông! Hơn nữa, văn học Mĩ quá phong phú và đa dạng, độc giả Mĩ
không có nhiều nhu cầu tìm đọc các tác phẩm nước ngoài. Dịch phẩm đa phần được
chiếu cố bởi giới trí thức, kinh viện ngoại trừ những tác phẩm nổi tiếng được
công chúng biết đến qua báo chí, truyền thông vì nó dính líu đến khía cạnh
chính trị.
Phần lớn dịch giả cũng là học giả, giáo sư Đại học, chuyên
gia văn học so sánh, nghiên cứu sinh về ngôn ngữ và văn hóa thế giới. Họ làm
việc với tinh thần nghiên cứu và dịch thuật luôn luôn là một chuyên đề cho họ
bàn thảo. Dịch giả Mĩ hồ như là chuyên gia nhiều hơn là nhà văn, có lẽ tệ hơn
thế, một người cạo giấy, một anh thợ thủ công nghệ.
6.
Dịch. Lao động thì như “dịch vật” lại còn bị người đời xem
như anh thợ thủ công nghệ. Có thể tôi đang tô son trát phấn, trang điểm lộng
lẫy cho cô Chung Vô Diệm chăng? Nghề văn vốn dĩ đã bạc bẽo, nghề dịch có lẽ còn
bi thảm hơn.
Một hôm chiều thứ Sáu vợ tôi gọi dây nói trong lúc tôi đang
làm việc ở cơ quan, “Anh ơi, tối nay về sớm anh pha bột cho em làm bánh nhé.
Recipe em để sẵn trong bếp.” “Được rồi, chuyện nhỏ, em yên trí.” Tôi trả lời.
Tôi về nhà đọc recipe của vợ và sắn tay áo pha bột làm bánh sinh nhật cho thằng
con. Trong recipe có câu “Then pour in 5 cups of water.” Ồ, dễ quá, 5 “tách”
nước đổ vào tô bột rồi cho máy đánh vào quậy. Quậy bột nên hồ. Tôi vừa làm vừa
ư ử trong cổ một điệu nhạc quen thuộc. Phen này vợ tôi phải phục tài nội trợ
của tôi sát đất mất thôi. Tôi làm xong bỏ đi tắm, chờ cô về nướng cái bánh
tuyệt hảo.
“Giời ơi! Anh làm gì mà bột nhão như cháo loãng thế này!”
Tiếng vợ tôi kêu lên thảng thốt. Mặt tôi đang hí hửng bỗng xịu xuống như mèo
mắc mưa. “Ơ … thì anh làm đúng theo recipe của em đấy thôi.” Tôi chống chế.
“Đây này, đổ vào 5 cup nước.” Vừa nói tôi vừa đưa cô xem cái tách cà phê tôi
vẫn dùng uống cà phê mỗi sáng trước khi đi làm.
“Giời ơi là giời! Cup là cái này đây, ông ơi là ông!” Cô mở
tủ bếp lấy ra một cái “cup” thủy tinh trên có những đường chỉ màu xanh vạch
ngang, trên mỗi đường chỉ lại có thêm hàng chữ 1 cup, 2 cups, 3 cups chỉ định
dung lượng của chất lỏng bên trong. Hiển nhiên một “tách” cà phê của tôi tương
đương với 2 cups của cô! Thật là tai hại! Và sự nghiệp làm đầu bếp của tôi chấm
dứt từ hôm đó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét