Lily
Yulianti Farid, còn gọi là Ly, nhà báo - nhà văn, sinh 1971 tại Makassar, tỉnh
Nam Sulawesi, miền đông Indonesia.
Ly
tốt nghiệp Đại học Hasanuddin, Makassar với bằng kỹ sư nông nghiệp, và bắt đầu
sự nghiệp văn học của mình với tiểu thuyết vừa "Identitas" khi còn học
tại trường.
Sau
khi tốt nghiệp đại học, Ly làm việc cho Nhật báo Kompas (1996-2000). Năm 2001,
chị đến Đại học Melbourne để lấy bằng thạc sĩ về "Giới tính và Phát triển".
Năm 2010 chị đăng ký học tiến sĩ với đề tài "Giới tính và Truyền
thông" cùng một trường đại học và hoàn thành vào năm 2014.
Trong
thời gian học ở Úc, Ly làm việc cho Đài phát thanh Australia, Melbourne
(2001-4), Đài phát thanh Nhật Bản và Đài NHK ở Tokyo (2004-8).
Truyện
ngắn của Ly xuất hiện trong nhiều hợp tuyển văn học. Tuyển tập truyện ngắn đầu
tiên của chị, Makkunrai, xuất bản đầu năm 2008 gồm mười một truyện dựa trên các
chủ đề về giới, tham nhũng, đa thê và chính trị từ quan điểm phụ nữ, và tập tiếp
theo, Maiasaura, xuất bản nửa năm sau đó. Tập truyện thứ ba của chị có tên Family Room,
được dịch sang tiếng Anh.
Lily
Yulianti Farid là người khởi xướng và giám đốc của "Lễ hội nhà văn quốc tế
Makassar" (MIWF) vào tháng 6, 2011 ở Makassar. Chị cũng tham dự các lễ hội
của các nhà văn ở một số quốc gia như Singapore, Úc, Pháp, Hà Lan và Hồng Kông.
NHÀ
BẾP
Lily
Yulianti Farid (Indonesia)
Nguyễn
Khắc Phước dịch.
Ruth
yêu bột mì. Mẹ yêu nhà bếp. Còn tôi yêu Ruth và Mẹ. Tôi lớn lên bên cạnh cái
bàn to ở nhà bếp, ngồi xem Ruth rây bột mì và trộn nhiều thứ bột nhão. Tôi tập
đi bằng cách nắm váy Mẹ khi bà băm hành, luộc khoai, và thái thịt.
Mẹ
tôi, một phụ nữ đẹp và vui tính, khi làm việc trong bếp thường hát những bài nhạc
xưa của Frank Sinatra: Cho tôi bay đến chị Hằng, Cho tôi chơi với ngàn sao…
Trên
đùi Ruth, tôi được nâng niu trên cái xà-rông luôn bốc mùi gia vị. Trên đùi Mẹ,
tôi ngủ gật trên vạt váy được là rất kỹ. Đôi khi tôi đái dầm khiến Mẹ sợ hãi nhảy
lên, thấy cái váy ướt và có mùi nước tiểu. Thế nhưng trong những lần như vậy, mẹ
tôi có cách ứng xử đặc biệt và không bao giờ khiến tôi cảm thấy có lỗi. “Con
gái mẹ giỏi lắm. Con vừa vẽ đươc mấy hòn đảo nhỏ đó nhé!” Mẹ nói.
Dỉ
nhiên Ruth là người phải lau khô những hòn đảo mà tôi tạo ra trên đệm, trên váy
của Mẹ, trên xà-rông của chị, và trên thảm nữa. Nhiều năm sau, khi kể cho tôi
nghe về thời thơ ấu của tôi, bằng cái giọng địa phương của vùng Ambon và hài hước
không kém Mẹ, chị nói: “Hồi em còn bé, em vẽ một hòn đảo giống y đảo Java!”
Cái
vệt nước tiểu của tôi trông giống đảo Java rất có thể chỉ có trong trí tưởng tượng
của Ruth mà thôi. Tôi thực sự nghi ngờ Ruth biết bàn đồ của đảo Java có hình
thù ra sao. Nhưng nếu trí tưởng tượng của chị làm chúng tôi cười thì chẳng có
lý do gì để chống đối.
Thực
ra Ruth cũng có chút ám ảnh về Java bắt nguồn từ những câu chuyện hồi còn bé chị
nghe mấy bà già trong làng – những phụ nữ có chồng từng phục vụ trong quân đội
Hoàng gia Hà Lan Đông Ấn, mà vào thập niên 1940, suốt cuộc chiến tranh dành độc
lập, họ đã theo chồng từ thành phố này đến thành phố khác khắp đảo Java. Ruth kể
hồi còn bé chị đã mơ được đi xe lửa ở Java.
“Vậy
sao khi rời Ambon, chị không đi Java?” tôi hỏi khi đang ở trong nhà bếp rộng
rãi của gia đình tôi.
Ruth
lục lại trí nhớ: “Chị thường bị say sóng và đi Java mất nhiều thời gian lắm,
nên chị quyết định tốt hơn nên đến ở với chú Makassar cho gần hơn.”
Tôi
lớn dần đến tuổi có thể giúp đánh bột nhão, băm hành, gọt khoai, và giúp Mẹ thực
hiện đơn đặt hàng nhiều loại bánh và thực phẩm mà bà nhận được. Tôi dành nhiều
thời gian cùng Ruth rây bột đến nỗi tôi yêu bột mì luôn. Hình ảnh bột qua rây
và rơi xuống khiến tôi tưởng tượng tuyết rơi đâu đó trên trái đất – như tôi đã
xem trong sách tranh và trên truyền hình.
“Nhìn
này, Ruth, bột rơi trông như tuyết nhỉ.”
“Tuyết
là gì, cô chủ nhỏ? Chị không biết.”
“Thứ
này ở nước ngoài mới có. Nó trắng và mềm giống như nước đá bào.”
Rõ
ràng vậy mà chị vẫn không hiểu nên chị hỏi: “Ở Java có tuyết không?”
Tuyết
ở Java? Tôi cười lớn. Tôi cho rằng trong trí tưởng tượng của chị, Java là nơi tận
cùng của thế giới, nơi thứ gì cũng có. Người giúp việc trung thành này, lớn lên
bên bờ biển của thị xã Ambon, đã ở với gia đình chúng tôi khá lâu. Suy nghĩ của
chị, cuộc sống của của chị, ngay cả cách cư xử của chị, thật đơn giản. Chị chẳng
yêu gì ngoài bột mà khi rơi từ cái rây xuống bát trông như là đang nhảy múa, và
hình ảnh nầy hẵn đã khiến chị nhớ lại những bãi cát trắng nơi quê nhà – thứ cát
mà nhiều năm sau đó, nhuộm máu của những cuộc xung đột vì hận thù tôn giáo, tạo
ra mùi hôi thối bốc lên khắp hòn đảo rợp bóng dừa.
Sau
một thời gian ở với chú Makassar, Ruth tìm được một công việc đơn giản: nghề giữ
em! Mẹ gặp Ruth ở bệnh viện phụ sản nơi Mẹ sinh tôi và chị đang làm cho khoa
dinh dưỡng và trong nhà bếp của bệnh viện. Mẹ đề nghị chị công việc chăm sóc
tôi và chị đồng ý. Và rồi, ngay cả sau khi tôi hết dùng tả và đi được, chị quyết
không rời xa tôi. Mẹ cũng không muốn chị xa tôi sau cơn bão hôn nhân làm rung
chuyển gia đình chúng tôi.
Vào
cuối thập niên 1990, tình trạng bất ổn nổ ra ở Ambon, khi lực lượng dân quân
Kitô giáo và Hồi giáo gieo rắc sự chết chóc và hủy diệt, Ruth, khi đó đã cao tuổi
rồi nhưng vẫn rây bột trong nhà bếp của chúng tôi, đã khóc gào thảm thiết trước
hình ảnh kinh khủng và ghê rợn về hòn đảo trên truyền hình: "Tại sao họ giết
nhau? Tại sao?"
Vừa
buồn vừa giận, chị dùng hết sức ném mạnh bột bánh mì và bột bánh rán xuống bàn.
Càng ngày sự hủy diệt ở Ambon càng cao, bánh mì do chị làm càng mềm, càng dẻo
hơn.
“Mày
đang trở thành chuyên gia làm bánh mì cao su,” Mẹ bình luận đơn giản về cách biểu
hiện nỗi buồn và giận của chị.
Bột
bánh mì và bánh rán mà Ruth sản xuất trong nhà bếp trong khi xem những cảnh hủy
diệt khủng khiếp ở Ambon trở thành loại bột dẻo nhất mà chị từng sản xuất.
Nhưng đừng hỏi về mùi vị của nó! Theo trí tưởng tượng bằng vị giác của tôi, món
thạch dâu tây mà chị làm có mùi thum thủm của máu làm tôi muốn lộn ruột.
*
Nhà
bếp của chúng tôi trở nên bận rộn hơn bao giờ hết. Các đơn đặt hàng mỗi ngày một
tăng, phần lớn đến từ các văn phòng chính phủ. Hình như họ không còn tổ chức
các cuộc họp mà không có nhà nước trả tiền trước. Nhiều viên chức đã đến để thương lượng dịch vụ ăn uống với mẹ
tôi.
Những
viên chức ấy thường cúi xuống thảo luận, nhìn qua lại với nhau rồi đằng hắng.
Đôi khi, họ giả vờ bận rộn bấm phím máy tính, tổng hợp các số liệu như học sinh
tiểu học trong kỳ thi toán, sau đó họ nói: "Trời ơi, tôi thực sự xin lỗi,
bà Andis, nhưng ngân sách cho cuộc họp của chúng tôi chỉ là năm triệu rupiah.
Bà có thể giảm giá được không?" Hoặc: "Thế này có được không, bà
Andis, nếu chúng tôi trả trước ba tháng để hóa đơn của tháng này được kết hợp với
ngân sách dành cho các cuộc họp trong hai tháng tới? Sẽ tạm ứng cho bà một ít."
Mẹ
luôn kiên nhẫn mỉm cười trong khi giải quyết các yêu cầu của khách hàng. Thậm
chí bà còn giữ bình tĩnh đúng mực khi một quan chức chính phủ đến gặp bà, và
sau khi hắng giọng, đưa cho bà một biên lai trống: "Xin lỗi, bà Andis, nhưng
bà làm ơn không điền vào biên lai, có được không? Chỉ cần chữ ký của bà là đủ. Được thôi, phải không, thưa bà? Đối với các
cuộc họp sắp tới, chắc chắn chúng tôi sẽ đặt hàng tất cả thực phẩm ở chỗ
bà."
Khi
người đàn ông bước đi, Ruth nhìn qua cửa sổ nhà bếp, lắc đầu và càu nhàu:
"Mấy ông viên chức chính phủ đó mà! Điều duy nhất họ muốn là giảm
giá."
*
Ruth,
Mẹ và tôi đắm mình vào công việc trong nhà bếp, nơi chúng tôi rất yêu thích. Mỗi
ngày một thực đơn mới. Cơ bản, ngày nào cũng bột, rau và thịt lấp đầy cuộc sống
của chúng tôi. Tuy nhiên, thời gian gần đây, một cái gì đó kỳ lạ đã xảy ra. Tại
sao Mẹ lại chảy nước khi cắt hành tím? Mẹ có khóc không? Tại sao Mẹ đập bột nhão
mạnh đến nỗi cái bàn rung lên? Mẹ có giận không? Tại sao Mẹ lại khóc? Mẹ giận
ai?
Mẹ
bước sầm sầm khiến nhà bếp rung lên. Tôi nghĩ cơn giận của Mẹ có thể làm vỡ gạch
men nền nhà. Tiếng nồi niêu soong chảo đụng nhau làm tai tôi phát đau.
Công
việc cung cấp thực phẩm của Mẹ phát triển mạnh mẽ; nhà bếp của chúng tôi bận rộn
hơn bao giờ hết. Tại sao tâm trạng Mẹ lại xấu như vậy? Tiếng soong nồi va đập
càng ngày càng to. Cả Ruth và tôi đều cảm nhận có điều gì đó không hay sắp xảy
ra.
Dù
tình hình nhà bếp căng thẳng nhưng chị Ruth và tôi không lên tiếng. Có quá nhiều
việc phải làm: rây bột, rán bơ, nghiền mịn sô-cô-la, chiên gà, nghiền ớt. Trong
khi đó, những người đàn ông mặc đồng phục công chức liên tục đến nhà chúng tôi,
mang theo hóa đơn trống, yêu cầu giảm giá, đặt hàng, giao thêm biên lai trống,
đặt thêm đơn hàng, v.v., không ngớt, như bánh xe guồng nước.
Ruth
và tôi có khả năng hoàn thành tất cả các đơn đặt hàng, và có thể vừa làm nhiệm
vụ vừa nói nhỏ với nhau. Nhưng bây giờ, vì lý do gì đó, chị đã mất đi sự chủ động,
tinh thần và tính tự nhiên.
Ruth,
người đã chăm sóc tôi từ khi tôi còn nhỏ, có làn da ngăm đen, vẻ rắn rỏi, đã chọn
cách vùi đầu vào chậu bột. Chỉ có bàn tay chị đang bận rộn, xoa bột giữa ngón
cái và ngón trỏ để kiểm tra độ mịn của nó. Chất bột trắng mịn rơi tự do qua các
ngón tay của chị, trở lại đáy chậu.
Trong
nhiều ngày, chúng tôi theo dỏi lối cư xử bất thường của Mẹ. Bà vẫn nhận đơn đặt
hàng của các công chức với vẻ mặt trống rỗng thay vì nụ cười thân thiện. Người
mẹ xinh đẹp của tôi, thường rất vui vẻ và thông minh trong những cuộc trò chuyện,
đã trở thành một sư tử cái gầm gừ, sẵn sàng tấn công.
Khi
tôi chào Mẹ đúng chuẩn mực bằng câu: "Mẹ ơi, hôm nay Mẹ khỏe không?"
- từ một trong những bài hát yêu thích của tôi - Mẹ nạt tôi: “Hỏi làm gì. Giải
quyết mấy đơn đặt hàng đó đi!"
Giọng
gắt gỏng của Mẹ làm tôi choáng váng và tôi vội vã rút lui vào góc bếp, khật khờ
như một con gián bị xịt thuốc. Đây là lần thứ hai tôi thấy sự thay đổi như vậy ở
Mẹ. Lần đầu tiên cách đây nhiều năm khi Mẹ đuổi cha tôi ra khỏi nhà sau khi
phát hiện ông đã lấy một người vợ khác. Lúc đó tôi còn nhỏ, mới sáu tuổi và
không nhớ rõ sự việc. Điều tôi nhớ là Ruth và tôi đang đợi trong bếp, và chị cố
gắng đánh lạc hướng sự chú ý của tôi khỏi những tiếng la lối trong phòng khách
bằng cách cho tôi ăn một lọ sôcôla. (Tôi đã khóc, cảm thấy đau đớn, và kể từ đó,
tôi đã hứa với bản thân mình sẽ không bao giờ ăn sôcôla nữa trong đời!)
Lần
này sự giận dữ của Mẹ rõ ràng có một lý do khác. Và vào ngày thứ tư sau khi nhà
bếp trở thành một chiến trường đầy căng thẳng, Ruth cuối cùng cũng mở miệng:
"Lần này có vấn đề thực sự", chị bắt đầu thì thầm tin tức về cơn bão
tố khiến tôi bị chấn động.
Mẹ
là một người phụ nữ xinh đẹp yêu nhà bếp; người đã chế biến nhiều món ăn bằng
tình yêu và sự tận tâm; và bây giờ, người băm thịt, tôm và hành như thể cố gắng
cắt bỏ quá khứ của mình. Dường như bà đang ở trong một hang động tối tăm và bí ẩn,
không phát ra ánh sáng để khỏi tiết lộ những gì được giữ bên trong. Y như bà giữ
những công thức nấu ăn ngon nhất cho riêng mình, bà cũng khóa chặt cuộc sống cá
nhân của mình.
"Có
thật không?" Tôi hỏi khi Ruth kể xong.
Chị
không trả lời.
"Ruth
nói cho em biết đi. Có thật không?"
Ngày
hôm sau tôi hỏi Ruth câu hỏi tương tự, nhưng một lần nữa không nhận được câu trả
lời. Khuôn mặt của Ruth tái nhợt như bột mì.
"Có
thật không?"
Tôi
không từ bỏ câu hỏi. Tôi nhìn chị, mặt tôi tái nhợt như mặt chị.
Trong
khung hai cửa sổ nhà bếp, nơi những mảng trời xanh thường xuất hiện, giờ là những
đám mây đen cuồn cuộn. Từ góc bếp xuất hiện một con gián, mang theo tin xấu.
Bông cải xanh, cà rốt, bắp cải, cà chua và đậu cove bắt đầu có mùi và thối. Những
chiếc tủ lạnh kêu ù ù trong cô đơn. Nhà bếp yêu dấu của chúng tôi đã mệt mỏi và
nhăn nhó, giống như một cô gái thất tình đã không tắm trong nhiều ngày.
"Có
thật không, Ruth?"
Ruth
tiếp tục rây bột và tôi cứ lặp đi lặp lại câu hỏi của mình cho đến khi Ruth
trông già hơn, đầu chị ấy gần như phủ đầy tóc trắng, như thể chậu bột đã đổ
trên đầu.
Tin
đồn Mẹ là tình nhân của một quan chức chính phủ cấp cao, nhờ đó, bà đã được
trao hợp đồng cho các dịch vụ thực phẩm. Tin đồn này bây giờ lơ lửng trong
không khí nhà bếp, biến thành bồ hóng và than, đen và kinh tởm.
Những
ngày mẹ khóc trong khi cắt hành tây và những ngày mẹ đập bột với sự tức giận
cũng giống như những lúc Mẹ mệt mỏi vì phải mang những bí mật đó một mình. Bà
đã kiệt sức vì phải chống lại những câu chuyện về cách làm thế nào để bà có được
hợp đồng sau những vụ làm ăn với các quan chức chính phủ. Giống như trùng amip,
những tin đồn lan rộng, nhanh hơn ánh sáng, nhân lên. (Nhưng ai mà không mê mẹ
tôi? Bà là một người phụ nữ được ban phước với một vẻ đẹp tự nhiên không phai mờ
theo tuổi tác; luôn tự chăm sóc thân mình và ăn mặc như Audrey Hepburn – bao giờ
bà cũng diện loại váy mà ngôi sao điện ảnh này mặc trong phim Breakfast at
Tiffany's.)
Nhà
bếp của chúng tôi bước vào một thời kỳ chuyển tiếp. Khi những tin đồn ngày càng
gay gắt, bầu không khí thay đổi như dầu trong chảo, sủi bọt và nóng. Vậy mà
Ruth vẫn im lặng. Và cuối cùng, tôi đã chịu thua, không hỏi nữa và chọn làm
theo Ruth bằng cách đập bột bánh mì hết sức mạnh.
Cuối
cùng, khi đã ngừng khóc và ngừng gầm lên như một con sư tử bị thương, Mẹ mời
Ruth và tôi đi một chuyến vòng quanh Java. Thật là bất ngờ, một liệu pháp cho cả
ba chúng tôi, những người lâu nay đã phải chịu đựng những tin đồn và bực tức trong
nhà bếp.
Ruth vô cùng hạnh phúc, chị hét lên sung sướng trên máy bay khi chị chỉ về phía đường mờ của bờ biển Java: "Đúng như chị đã nói với em, Kalyla, hình dạng của hòn đảo giống như vệt nước tiểu của em khi còn bé!"
Ruth vô cùng hạnh phúc, chị hét lên sung sướng trên máy bay khi chị chỉ về phía đường mờ của bờ biển Java: "Đúng như chị đã nói với em, Kalyla, hình dạng của hòn đảo giống như vệt nước tiểu của em khi còn bé!"
Đó
là chuyến dã ngoại cuối cùng mà ba chúng tôi đi cùng nhau. Vài tháng sau, Ruth
đột ngột qua đời vì một cơn đau tim. Mẹ và tôi hộ tống chị ấy trở về với gia
đình ở Ambon. Ruth, người phụ nữ mạnh mẽ đã chăm sóc tôi không mệt mỏi, được
chôn không xa bãi cát của bờ biển Ambon, một dãi mềm và trắng như bột mà chị
yêu nhiều lắm.
Về
phần mình, tôi đã dành nhiều thời gian cố gắng để đoán những bí mật của thứ bồ
hóng đen và than bay lơ lửng trên đôi mắt của mẹ tôi. Tôi đã cố gắng tìm cách
vào hang bí mật của mẹ. Sau khi Ruth mất, người phụ nữ xinh đẹp là mẹ tôi đã
dành nhiều thời gian trò chuyện với những bông hoa mà bà đã trồng hơn là với mọi
người.
Vào
buổi sáng, trước khi những bông hoa nở hoàn toàn, tôi thường thấy Mẹ vuốt lá của
cây thu hải đường và hoa cúc. Từ cửa sổ phòng mình, đôi khi tôi thấy những giọt
nước mắt của mẹ tôi rơi trên những chiếc lá. Nước mắt của bà hòa cùng với những
giọt sương mai.
Nhà
bếp của chúng tôi rơi vào yên tĩnh. Cuối cùng, nó đã chết. Tất cả còn lại ở đó
là tôi, mơ mộng bên chiếc bàn gỗ lớn giữa bếp, tung hứng những ký ức, cả cay đắng
lẫn ngọt ngào. Bức tường nhà bếp dường như là một màn hình chiếu phim, trên đó
xuất hiện "HẾT".
*
Bây
giờ tôi cũng là một người cung cấp thực phẩm mà mọi người nói là đẹp như mẹ
tôi. Điều khác biệt giữa chúng tôi là tôi dễ nỗi giận và không ngần ngại nhổ
vào những biên nhận trống mà một số quan chức cấp thấp cố gắng trao cho tôi hoặc
nguyền rủa một trợ lý cấp cao cố gắng dàn xếp ăn chia với cấp trên, và sẽ nổ
tung khi một quan chức cố gắng định giá. Tôi không có nụ cười nào dành cho họ,
không giống như mẹ tôi đã cười với họ cách đây nhiều năm.
L.Y.F.
*
*
Dịch
từ bài “The Kitchen”, bản tiếng Anh của John H. McGlynn, đăng trên trang Words
Without Borders - https://www.wordswithoutborders.org/article/the-kitchen.