Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

LÃO THỢ DIỀU


LÃO THỢ DIỀU
Truyện ngắn của Ruskin Bond
Nguyễn Khắc Phước chuyển ngữ


Trên đường Gali Ram Nath có một cây đa cổ thụ đã mọc từ một vết tường nứt của một đền thờ Hồi giáo bỏ hoang – và con diều của thàng bé Ali bị mắc trên cành cây đó.


Thằng bé, chân trần và phong phanh một chiếc áo rách, chạy dọc theo con phố hẹp lát sỏi đến chỗ ông nội nó đang ngồi gật gù mơ màng trong sân nắng.
“Nội ơi!” thằng bé gọi. “Diều mất rồi!”
Ông lão đang mơ màng bỗng giật mình, ngẩng đầu lên, lộ ra chòm râu mà nếu không nhuộm thì đã bạc trắng rồi.
“Dây dứt rồi hả?” lão hỏi. “Thứ dây đó đâu có tốt bằng dây ngày xưa.”
“Không phải đứt dây, nội ơi, diều bị mắc trên cây đa.”
Lão cười khoái trá. “Cháu chưa biết thả diều đâu, cháu ạ. Ông thì già rồi, chẳng giúp cháu được. Tiếc quá nhỉ! Nhưng cháu sẽ có con khác.” Lão vừa làm xong một con bằng tre, giấy và lụa mỏng, đang phơi nắng cho cứng. Thân diều màu hồng nhạt, đuôi ngắn màu xanh lục. Lão trao con diều cho Ali, và thằng bé nhón chân để hôn vào má hóp của ông nội nó.
“Cháu sẽ không làm mất con diều này” thằng bé nói. “Nó sẽ bay như chim.” Rồi nó quay gót, nhảy cà tưng ra khỏi sân.
Lão già vẫn ngồi mơ màng trong nắng. Tiệm làm diều của lão không còn nữa. Toàn bộ cơ sở đã bán cho người buôn đồ cũ từ lâu. Nhưng lão vẫn làm diều để giải trí và để cho thằng cháu nội. Chẳng mấy người mua diều chơi vào thời đại phi đạn và vệ tinh này. Người lớn chẳng để ý gì đến diều gió; trẻ con chỉ thích xem phim. Hơn nữa, chẳng còn chỗ trống để thả diều. Thành phố đã nuốt chửng cái công viên xanh trải dài từ tường thành cổ đến bờ sông.
Nhưng lão vẫn nhớ cái thời người lớn tụ tập chơi thả diều trên công viên và những cuộc thi thả diều. Diều lượn trên trời đôi khi bị vướng vào nhau cho đến khi dây bị đứt, có khi dẫn đến ẩu đả. Những con diều bị thua cuộc được giải phóng bay vào trời xanh vô định. Có nhiều cuộc cá độ và tiền chuyển từ túi người này sang túi người khác.
Thả diều có thời là môn thể thao của nhà vua dưới triều Nawab. Lão còn nhớ chính nhà vua và đoàn tùy tùng đã ra tận bờ sông để tham gia trò tiêu khiển dành cho hoàng tộc này. Thời đó, người ta còn thì giờ rãnh rỗi để thưởng thức điệu múa vui nhộn của giấy. Ngày nay, ai cũng vội vội vàng vàng như đang đeo đuổi tham vọng gì đó thật lớn lao thì những thứ mảnh mai như diều và mong manh như những giấc mơ thường bị dẫm đạp như rác rưởi.
Lão Mahmood thợ diều đã có thời hoàng kim, được cả thành phố biết đến. Một vài con diều của lão được làm hết sức sông phu và bán với giá ba hoặc bốn ru-pi. Theo lệnh của nhà vua, có lần lão đã làm một loại diều đặc biệt, không giống bất cứ con nào ở trong vùng từ trước đến nay. Con diều được ghép bằng hành chục khung tre mỏng, dán giấy cực nhẹ. Ở góc mỗi khung, ông gắn một cánh lá làm thăng bằng. Mặt diều hơi lồi, trên đó vẽ một mặt người kỳ quái, hai mắt gắn hai miếng gương nhỏ. Diều nhỏ dần từ đầu đến đuôi, uốn lượn dễ dàng, khiến nó có hình thù như con rắn đang bò. Phải khéo léo lắm mới điều khiền được con diều kềnh càng này rời khỏi mặt đất, và chỉ Mahmood mới làm được.
Người ta nghe tiếng con “Diều Rồng” của lão và đồn thổi rằng nó có sức mạnh siêu nhiên. Rất đông người đã tụ tập ở công viên để xem Mahmood thả diều trước sự chứng kiến của nhà vua. Thoạt đầu nó không chịu rời mặt đất. Thân nó phát ra tiếng càu nhàu, cự nự, và mấy miếng kính trong mắt nó phản chiếu ánh mặt trời đỏ rực khiến con diều trở nên một con vật bướng bỉnh, khó trị.
Thế rồi gió thổi đúng hướng và con Diều Rồng bay vút lên không, lượn qua lượn lại, mỗi lúc một cao hơn, nhấp nháy đôi mắt tinh quái. Khi đã lên cao vút trên trời, nó kéo dây quá mạnh khiến thằng con trai của lão phải vào giúp sức. Nhưng con diều chẳng chịu thua, nó càng giựt mạnh, dường như muốn tự do, muốn thoát, muốn cuộc sống riêng. Và dần dần nó thực hiện được.
Dây diều đứt phựt, con diều lao vút về phía mặt trời, về phía thiên đường, cho đến khi biến mất khỏi tầm nhìn. Không ai tìm thấy nó ở đâu sau đó. Mahmood không hiểu sao mình làm được một con diều kỳ diệu như vậy. Lão không thể làm lại một con giống như thế, nhưng bù lại, lão làm một con có gắn ống sáo phát ra tiếng ngân nga như tiếng đàn vi-na khi nó lượn trên không.
Vâng, đó là những ngày thoải mái thảnh thơi. Nhưng vua Nawab đã chết từ lâu rồi, và cháu chắt ông ta cũng nghèo gần như Mahmood. Thợ làm diều, giống như người làm thơ, cần có người bảo trợ; nhưng bây giờ chẳng ai biết đến lão Mahmood nữa, chẳng ai hỏi tên hay nghề nghiệp của lão, chỉ vì bây giờ quá đông người sống trên phố Gali, và chẳng ai buồn để ý đến người hàng xóm.
Hồi trẻ, khi lão bị ốm, hàng xóm thường đến thăm hỏi sức khỏe; nhưng nay, khi đời lão chẳng còn bao nhiêu ngày thì chẳng ai đến viếng thăm. Quả thực như vậy vì hầu hết bạn già của lão đã chết, con của lão đã lớn khôn, một đứa làm gần, còn đứa kia thì làm tận Pakistan vào thời phân chia lãnh thổ nên không thể về thăm bà con.
Những đứa trẻ mười năm trước đây mua diều của lão nay đã thành người lớn, đang lo kiếm sống, chẳng có thời gian để nghĩ đến lão và những hoài niệm của lão. Chúng đã trưởng thành trong thế giới cạnh tranh đang thay đổi nhanh chóng và thờ ơ với lão thợ diều chẳng khác gì với cây đa bên đường. Cả hai đều bị xem như là thứ cố định vĩnh viễn, chẳng liên quan gì đến cọng đồng chạy hung hục quanh họ. Không còn ai tụ tập dưới cây đa để bàn bạc chuyện này, dự định chuyện kia; chỉ trong mấy tháng hè, đôi khi có người ghé chút để tránh nắng trưa.
Nhưng dỉ nhiên có thằng cháu nội của lão. Còn may lão có thằng con làm gần nhà, và con dâu ở với lão. Xem thằng bé chơi cũng vui. Nó giống như một cây non đang đâm chồi nảy lộc.
Có sự giống nhau giữa cây và người. Cả hai lớn lên cùng nhịp độ nếu không bị bỏ đói, bị hại hay bị chặt. Vào thời trẻ, cây và người đều xinh đẹp rạng rỡ, đến tuổi xế chiều, cả hai đều còng xuống, dường như để nhớ về quá khứ, cánh tay yếu đuối thì lộ ra ngoài nắng, và thở dài trút những chiếc lá cuối cùng.
Lão Mahmood trông giống cây đa cổ thụ, tay lão sần sùi và vặn vẹo như rể cây. Thằng Ali giống như cây mimosa mọc ở cuối sân. Trong hai năm, cả cây lẫn thằng bé đã tràn đầy sức sống và niềm tin vào tuổi thanh niên tương lai.
Tiếng động trên phố càng lúc càng nhỏ dần. Mahmood không hiểu mình có ngủ gật và, như thường khi, mơ về một con diều xinh đẹp và mạnh mẽ như con chim Garuda trong thần thoại Hindu. Lão muốn làm một con diều thật đẹp để tặng Ali. Lão chưa có gì để lại cho nó.
Lão nghe văng vẳng tiến Ali nhưng không biết nó đang gọi mình. Tiếng thằng bé dường như từ một nơi xa, rất xa.
Ali đang ở trước sân, nó hỏi mẹ đi chợ về chưa. Khi thấy ông nội không trả lời, thằng bé đến gần, hỏi lại. Ánh nắng chiều chiếu nghiêng qua đầu lão, và một con bướm trắng đậu trên chòm râu của lão. Mahmood lặng yên, và khi thằng bé đặt bàn tay rám nắng của nó lên vai ông nội, nó chẳng thấy ông động đậy gì. Thằng bé nghe tiếng gì đó tựa như tiếng mấy hòn sỏi trong túi nó cọ nhau.
Đột nhiên nó sợ và quay bước ra cổng. Nó vừa chạy xuống phố vừa kêu mẹ.
Con bướm rời râu ông lão bay về phía cây mimosa. Trên cây đa, đột nhiên có cơn gió mạnh, nâng con diều lên cao, xa khỏi thành phố hối hả vã mồ hôi, và đưa nó vào trời xanh bao la./.


Nguyên tác: The Kite Maker, tác giả Ruskin Bond, đăng trong tập The World’s Best Contemporary Short Stories, nhà xuất bản Ace Books Inc., New York, 1956.


ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ
Ruskin Bond sinh năm 1934 tại Kasauli, Himachal Pradesh, Ấn Độ. Ông xuất thân từ gia đình có hai dòng máu Anh-Ấn, và trải qua thời niên thiếu ở một vùng đồi dưới chân núi Hymalaya, nơi ông lấy bối cảnh để viết nhiều tác phẩm. Năm 17 tuổi, ông sang Anh, vừa làm thay đổi nhiều việc, vừa viết văn. Năm 1957, cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, THE ROOM ON THE ROOF, đoạt giải Llewellyn Rhys Prize, giải thưởng văn học của hằng năm của nước Anh dành cho các nhà văn dưới 30. Năm 1992, ông nhân giải thưởng Sahitya Akademi dành cho tập truyện ngắn "OUR TREES STILL GROW IN DEHRA" do Viện Văn Học Quốc Gia Ấn Độ cấp. Năm 1999, ông nhận giải thưởng Padma Shri do có công đóng góp lớn cho văn học thiếu nhi.

Không có nhận xét nào: