Người Phi Chúng Tôi Chỉ Dùng Thức Uống
Nhẹ
Truyện ngắn của Alejandro Roces
(Philipppines)
Nguyễn Khắc Phước dịch
Người Phi chúng tôi chỉ dùng thức uống
nhẹ. Chúng tôi uống chỉ vì ba lý do chính đáng:
Uống khi rất hạnh phúc, uống khi rất buồn và uống vì bất kỳ lý do nào
khác.
Khi người Mỹ chiếm lại Philippin
(1), họ xây một căn cứ không quân cách khu dân nghèo của chúng tôi một vài dặm.
Lính Mỹ xuất hiện ở đây là chuyện thường ngày. Tôi đã gặp rất nhiều người và kết
bạn với họ. Tôi không thể phát âm tên của họ. Tôi cũng không thể phân biệt họ
khác nhau chỗ nào. Tất cả người Mỹ đều trông giống nhau. Tất cả đều da trắng.
Một chiều, tôi đang cày ruộng với
con trâu tên Đatu của tôi. Tôi đi chân trần và để mình trần, quần xăn đến đầu gối.
Vải quần bằng sợi abaca (2) và dệt trên khung dệt tự chế. Tôi mang con dao bolo (3) ở bên hông.
Một người lính Mỹ đang đi trên đường.
Khi thấy tôi, anh ấy tiến về phía tôi. Tôi ngừng cày và đợi anh ta. Tôi thấy
anh mang theo nửa chai rượu whisky. Chai rượu whisky dường như là một phần của
bộ đồng phục quân đội Mỹ.
“Xin chào chú em da nâu,” anh nói,
vỗ nhẹ vào đầu tôi.
“Chào Joe,” tôi trả lời.
Tất cả người Mỹ được gọi là Joe ở
Philippin.
“À này. Chú biết chỗ nào bán whisky
không?”
“Thật đáng tiếc, Jose,” tôi trả lời. “Không có quán bar nào trong khu
này.”
“Có cái này đây, nhấp một chút đi.
Nãy giờ chú mày làm việc mệt rồi đó,” anh nói, đưa cho tôi nửa chai rượu.
“Không, cảm ơn, Joe,” tôi nói. “Người
Phi chúng tôi chỉ dùng thức uống nhẹ.”
“Chà, chú mày không uống gì sao?”
"Có uống chứ, nhưng không phải
whiskey."
“Thế chú mày uống cái quái gì?”
"Tôi uống lambanog."
"Nước ép cây rừng à?"
"Có lẽ lính Mỹ các anh thường
gọi món uống đó như vậy.”
"Tôi có thể mua thứ đó ở
đâu?"
"Tôi biết mấy chỗ bán, nhưng
tôi e rằng anh sẽ không thích nó."
“Tôi thích tất tần tật. Khỏi lo.
Tôi đã uống đủ thứ — rượu whisky, rượu rum, rượu mạnh, rượu tequila, rượu gin,
rượu sâm banh, rượu sake, rượu vodka. . . Anh ấy kể nhiều thứ nữa mà tôi không
thể viết ra được.
“Tôi không chỉ uống nhiều, mà thứ
gì tôi cũng uống. Tôi đã uống nước hoa Chanel Số 5 khi ở Pháp. Ở New Guinea,
tôi đã say vì nước cạo râu. Khi nằm bệnh viện, tôi đã xỉn vì cồn y tế. Trên đường
đến đây, tôi đã ngất ngư với thứ nhiên liệu để chạy ngư lôi. Chú mày không ngoa
khi nói tôi uống nhiều. Vậy thì, chúng ta hãy uống nước ép cây rừng, được
không? ”
“Được thôi,” tôi nói. "Đợi tôi
một lát để dẫn con trâu này vào hố bùn, sau đó chúng ta có thể về nhà tôi và uống."
"Chú mày yêu con vật đó lắm,
phải không?"
"Vâng, tôi yêu nó lắm,"
tôi trả lời. "Nó làm một nửa công việc của tôi."
"Tại sao chú mày không dùng
hai con?"
Tôi không trả lời.
Tôi gỡ Đatu khỏi cái cày và dẫn nó
đến hố bùn. Joe theo tôi. Đatu nằm trong bùn và khoái chí kêu ọ ọ.
Đatu lắc đầu và dùng cặp sừng rộng của nó để vẩy bùn trên
lưng. Nó lăn qua lăn lại và cả thân mình nó được bao phủ bởi lớp bùn nhầy nhụa.
Vẻ hài lòng hiện trong mắt nó. Sau đó, nó vung đuôi khiến Joe và tôi phải chạy
khỏi hố bùn để tránh bị bùn văng trúng. Tôi để Đatu trong hố bùn. Sau đó quay
sang Joe, tôi nói.
"Nào, đi thôi."
Và chúng tôi tiến về nhà tôi. Jose
thận trọng nhìn quanh.
“Ở đây nhiều dừa quá,” anh nói.
“Ở Mỹ không có dừa à?” tôi hỏi.
“Không,” anh trả lời. “Quê tôi có
nhiều thông.”
"Cây thông trông giống thế
nào?"
“Ồ, nó cao và đường bệ lắm. Nó đâm
thẳng lên trời giống như một tòa nhà chọc trời. Nó tượng trưng cho nước Mỹ.”
"Vâng," tôi nói,
"còn cây dừa tượng trưng cho Philippin. Nó vươn lên trời, nhưng lá nó vòng
xuống đất, như thể ghi nhớ nơi đã sinh ra nó. Nó không quên đất đã cho nó sự sống.”
Trong chốc lát, chúng tôi đến căn lều
lợp bằng lá dừa nước của tôi. Tôi lấy cái thang tre và tựa nó lên một cái cây.
Sau đó, tôi leo lên chiếc thang và hái mấy trái calamansi.
“Cái gì thế?” Joe hỏi.
“Chanh Philippin,” tôi trả lời.
"Chúng ta cần trái này để làm đồ uống."
"Ồ, thuốc giải rượu."
“Đúng vậy, Joe. Lính tráng thường gọi
vậy đó.”
Tôi bỏ chanh đầy túi rồi leo xuống.
Tôi ra giếng trong vườn và rửa chân cho sạch bùn. Rồi chúng tôi leo lên túp lều
bằng thang tre. Trời đã tối nên tôi đổ đầy dầu vào vỏ dừa, nhúng một đầu bấc
vào dầu và thắp sáng. Cây đèn dầu tỏa ánh sáng nhấp nháy. Tôi cỡi con dao bolo
và treo nó lên tường.
“Mời bạn ngồi, Joe,” tôi nói.
“Ở đâu?” Anh ấy nhìn quanh, hỏi.
“Ngay đó,” tôi nói, chỉ xuống sàn
nhà.
Joe ngồi xuống sàn. Tôi thái hai
trái chanh thành lát, lấy một ít muối thô và đặt bên cạnh chân bàn. Tôi đi vào
bếp và lấy cái ống tre, nơi tôi để chai rượu lambanog.
Lambanog là một thức uống được chiết
xuất từ cây dừa với vỏ cây đước được nghiền thành bột để ngăn chặn sự bùng cháy
tự phát. Nó có nhiều công dụng. Chúng tôi sử dụng nó để chữa rắn cắn, chống sốt
rét, làm thuốc trừ sâu và để thuộc da trâu.
Tôi đổ một ít lambanog vào hai vỏ dừa
được đánh bóng và đưa một vỏ cho Joe. Tôi pha loãng đồ uống của tôi với một ít
rượu whisky của Joe. Nó biến thành màu trắng đục như sữa. Cả hai chúng tôi đều
ngồi trên sàn nhà. Tôi đổ một ít đồ uống đó lên sàn tre; nó chảy qua các khe hở
xuống mặt đất bên dưới.
“Này, cậu đang làm gì vậy,” Joe
nói, “đổ rượu ngon đi à?”
“Không,” tôi nói. "Ở đây có tập
quán luôn luôn trả lại cho đất một chút những gì chúng tôi đã lấy từ đất."
“Này,” anh nói, nâng cái vỏ dừa
lên. "Mừng chiến tranh kết thúc!"
"Mừng chiến tranh kết
thúc!" tôi nói, cũng nâng vỏ của tôi lên. Tôi nhấp một chút. Liền sau đó
là một lát chanh nhúng trong muối thô. Joe uống nhưng phản ứng rất kỳ cục.
Đôi mắt anh lồi ra như mắt ếch và
tay nắm lấy cổ họng, trông như thể anh ta đã nuốt một con rết.
"Nhanh lên, thuốc giải rượu!" anh nói.
Tôi đưa anh ta một lát chanh nhúng
vào muối chưa tinh chế. Anh nặn chanh vào miệng. Nhưng đã quá trễ rồi. Không gì
có thể giải được. Chanh không ích gì. Tôi nghĩ kể cả một quả dừa cũng không thể
cứu anh ta.
“Chuyện gì thế, Joe?” Tôi hỏi.
“Không có gì,” anh nói. "Lần uống
đầu tiên tôi thường bị thế này."
Anh thở phì phò và nước mắt lăn dài
trên má.
"Vâng, lần uống đầu tiên luôn
luôn tác dụng như một máy rà mìn," tôi nói, "nhưng lần thứ hai sẽ êm
hơn."
Tôi rót vào vỏ dừa của anh lần thứ
hai. Một lần nữa, tôi pha loãng đồ uống của tôi với rượu whisky của Joe. Tôi
rót vào vỏ dừa của mình. Tôi thấy cổ anh ta đẫm mồ hôi. Anh cởi khuy áo cổ và nới
lỏng cà vạt. Joe cầm lấy vỏ dừa của anh nhưng anh ta có vẻ không lo lắng lắm.
Tôi nâng vỏ dừa lên và nói: "Chúc mừng nước Mỹ!"
Tôi cố gắng cho ra dáng một chủ nhà
tốt bụng.
“Chúc mừng nước Mỹ!” Joe nói.
Cả hai chúng tôi đều uống cạn. Joe
lại phản ứng một cách buồn cười. Cổ anh ta vươn dài như cổ rùa. Và bây giờ anh
ta thở hổn hển như một con trâu điên. Một tay anh nắm chặt cà vạt.
Rồi anh nhìn xuống cà vạt của mình,
ném nó sang một bên, và nói: "Ôi, Chúa ơi, nảy giờ tôi nghĩ đó là lưỡi của
tôi."
Sau đó anh bắt đầu nghiến răng.
“Chuyện gì vậy, Joe?” Tôi hỏi, vẫn
đang cố trở thành một chủ nhà hoàn hão.
"Nhiều quá rồi, đồ uống chết
tiệt này đã làm cái răng giả của tôi long ra."
Khi Joe thở ra, một con mối bay
quanh ngọn lửa nhấp nháy bị rơi xuống chết. Anh nhìn chằm chằm vào con mối và
nói: “Rồi chúng sẽ đồn rằng người ta đang xịt DDT.”
“Uống một chút nữa nhé?” Tôi hỏi.
"Chúng ta ở đây để uống mà!"
“Không, cảm ơn,” anh nói. "Tôi
xong rồi."
"Thôi được. Chỉ một lần nữa
thôi.”
Tôi đổ lambanog vào vỏ dừa và một lần
nữa pha loãng đồ uống của tôi với rượu whiskey. Tôi đưa cho Joe đồ uống của anh
ấy.
“Chúc mừng Philippin,”anh nói.
“Chúc mừng Philippin,” tôi nói.
Joe uống một chút. Tôi không thể
nhìn thấy rõ ràng trong ánh sáng nhấp nháy, nhưng có thể thề rằng tôi thấy khói
bốc ra từ tai anh ta.
"Thứ này ắt hẵn có phóng xạ,"
anh ấy nói.
Joe hắt phần rượu còn lại lên bức
tường dừa nước và hét lên: "Lửa, đồ chết tiệt, lửa!"
Ngay khi tôi đang còn muốn uống thì
Joe đã ngất đi. Anh nằm ngay đơ trên sàn như một khúc gổ. Chẳng giống ai.
Tôi biết rằng những người lính phải
về doanh trại vào một thời điểm nhất định. Vì vậy, tôi quyết định đưa Joe trở lại.
Tôi cố nhấc anh ta lên. Anh ta nặng như trâu. Tôi phải gọi bốn người hàng xóm để
giúp tôi mang Joe. Chúng tôi đặt anh lên lưng trâu. Tôi lấy con dao bolo và buộc
vào hông. Sau đó, tôi đưa anh ta trở lại trại lính. Người dân làng không hiểu
chuyện gì đã xảy ra với người Mỹ này.
Sau hai giờ, tôi đến sân bay. Tôi
tìm doanh trại của anh và đưa anh ta đến
đó. Bạn bè anh giúp tôi đưa anh lên giường. Họ rất vui khi gặp lại anh. Mọi người
đều cảm ơn tôi đã đưa anh ấy về nhà. Khi tôi rời trại lính, một người bạn của
anh ấy gọi tôi và nói:
"Này bạn! Làm một lon bia trước
khi đi nhé?”
“Không, cảm ơn,” tôi nói. “Người
Phi chúng tôi chỉ dùng thức uống nhẹ.”
***
***
Chú thích của người dịch:
(1) Chiến dịch Philippines
1944-1945 của quân Đồng Minh tiến hành trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhằm
đánh bại lực lượng Nhật Bản chiếm đóng Philippines. Chiến dịch bắt đầu vào ngày
20 tháng 10 năm 1944 và kéo dài cho đến khi chiến tranh kết thúc. (Theo
Wikipedia.)
(2) Abaca: thứ cây trông tựa như
cây chuối.
(3) Dao bolo là cái dao lớn, gần giống
cái rựa hoặc lưỡi lê, cán hơi cong. Người Phi dùng để phát cây rừng, chặt dừa,
đốn mía và đặc biệt còn dùng làm vũ khí. Dao bolo thường thấy trên nhiều tượng
đài chiến thắng ở Philippin.
SƠ LƯỢC VỀ TIỂU SỬ CỦA TÁC GIẢ
Alejandro Roces (1924 – 2011) là một
nhà văn, nhà viết tiểu thuyết và được đánh giá là người viết truyện ngắn hay nhất
Philippin. Ngoài truyện ngắn, ông còn viết vô số bài báo tập trung vào việc bảo
tồn những di sản văn hóa Philippin bị bỏ quên. Tác phẩm của ông đã được xuất bản trên nhiều tạp chí trên thế
giới và đã nhận được nhiều giải thưởng quốc gia và quốc tế.
Trong năm thứ nhất tại Đại học
Arizona, truyện “We Filipinos are Mild Drinkers” của ông đã giành giải Truyện ngắn hay nhất.
Một truyện khác của ông: “My
Brother’s Peculiar Chicken” được xem là truyện hay nhất trong Tạp chí Truyện ngắn
(Story Magazine) do nhà văn Mỹ Martha Foley cùng chồng làm chủ bút từ 1948 –
1951.
Trong hơn 30 chức vụ từng đảm
đương, ông là Bộ trưởng Bộ Giáo dục Philippin từ 1961 đến 1965.
Chính ông là người dẫn đầu cuộc vận
động thay đổi Ngày quốc khánh của Philippin từ ngày 4 tháng 7 đến ngày 12 tháng
6, thay đổi ngôn ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Phi trong tem, tiền tệ và hộ chiếu
của người Phi.
Trang Amazon.com đang bán một số
sách của ông, trong đó có:
-Of Cocks and Kites, 1959, tập truyện
ngắn.
- Something to Crow About, 1997, tập
truyện ngắn.
-Fiesta, 1980, tập tiểu luận về lễ
hội dân gian Phi.
Ông nhận được bằng tiến sĩ danh dự
từ Đại học Tokyo, Đại học St. Louis tại Baguio, Philippin, Đại học Bách khoa
Philippin, và Đại học Ateneo, Manila.