BẢN
LĨNH ĐÀN ÔNG
Truyện
ngắn của Sheila Brown Sandray (Châu Phi)
Solomon
chuyên nghề làm vườn và anh yêu đất đai Châu Phi quê hương của anh. Anh làm
công cho gia đình Peterson không kể giờ giấc, chỉ biết làm cho xong việc.
Solomon
chăm sóc vườn như chăm sóc cha mẹ, xem cây cối như là con cái của mình.
Hôm
ấy là chiều thứ Bảy, khuất phía sau hàng rào, không ai nghĩ rằng vào giờ đó,
Solomon vẫn còn đang lúi húi buộc mấy cây cà chua.
Cũng
nhờ đó mà anh nghe được câu chuyện từ khu vườn bên cạnh, khiến anh choáng váng
như sấm nổ bên tai.
Người
ta nói rằng cô gái mà anh dành hết con tim, tâm hồn và cũng vì người ấy mà bao
nhiêu tiền dành được anh đều bỏ vào cái hộp nhỏ dấu dưới mái nhà – thế mà bây
giờ anh nghe cô gái này không chỉ của riêng anh.
Solomon
đứng phắt dậy và những người bên kia vườn biết anh đã nghe được liền bỏ chạy.
Solomon
là người đàn ông đàng hoàng, đứng đắn, không phải hạng người mà ai đàm tiếu gì
cũng được. Anh thường nghiêm trang, ít khi đùa giỡn, nhưng khi đã cười, anh cười
thoải mái. Hiếm khi anh ngồi với bạn bè ở quán bên đường để bỡn cợt hay nói
chuyện tục tĩu. Nhưng khi anh đã ngồi lại thì câu chuyện của anh bao giờ cũng
thú vị và lôi cuốn, và so với đám thanh niên ở đó thì anh như con sư tử giữa
đám mèo con.
Lúc
này Solomon đang đứng bên hàng rào, nhìn bọn đàn ông bỏ chạy với cặp mắt rực lửa.
Anh
đứng đó một mình, run lên vì tức giận. Dòng máu chiến binh Zulu truyền từ tổ
tiên bao đời đang bừng cháy hừng hực trong anh.
“Ta
phải giết ả!” anh nghĩ. Nhưng anh biết mình sẽ không bao giờ nở giết mặt trời,
mặt trăng và tinh tú của đời anh.
“Bọn
chúng nói láo!” anh lẩm bẩm. Nhưng anh biết đó không phải là chuyện biạ đặt. Đã
có nhiều dấu hiệu chứng tỏ điều đó là sự thật. Cái vòng đeo tay nàng nói là của
cha nàng cho. Cha nàng cũng đã cho em gái nàng một chiếc vòng lấp lành khi nó lấy
chồng, và chú rể đã nộp sính lễ khá hậu hĩnh. Anh tìn câu chuyện của nàng, như
đàn ông thường nghe lời phụ nữ, vì anh muốn những điều nàng nói là sự thật.
Solomon
điên cuồng vung cái rựa dùng để chặt mía vào đám cỏ chằng chịt bò từ ngoài vào
vườn cho đến khi mồ hôi đổ ra như tắm xuống lưng và đùi.
Nhìn
bóng mình phản chiếu trên mặt hồ, anh thấy mình cao lớn, khỏe mạnh, da đen bóng
như tổ tiên người Zulu. Dái tai kéo căng bao quanh vòng hột cườm lớn bằng đồng
xu nửa đô-la. Một tay đưa lên cầm dái tai, Solomon đứng suy nghĩ lan man.
“Mình
đi hỏi thầy mo xem sao,” cuối cùng anh quyết định, và cảm thấy như vừa trút một
gánh nặng. Quay lại với vườn cà chua, anh nhẹ nhàng buộc mấy nhánh dễ gảy vào
giàn.
Lão
thầy mo chẳng giúp được gì. Lão ném một nhúm xương khô xuống đất, nhìn chằm chằm
vào nhúm xương như để tìm thông tin gì đó, mắt lão lấp lánh như mắt loài rắn
mamba đằng sau cái mặt nạ rúm ró mà lão đang mang.
“Một
con linh cẩu đang rình bắt con bê của mầy,” lão nói xong liền gom xương lại.
Solomon hy vọng ngồi đợi nhưng lão không ném xương nữa. Lão nhìn anh với đôi mắt
lấp lánh và thêm:
“Về
ở nhà suốt ngày, không ăn, không uống, không ngủ. Khi đàn sáo về tổ, mầy sẽ biết
phải làm gì.”
Tất
cả chỉ có thế.
Solomon
miễn cưỡng lê bước nặng nhọc về nhà. Suốt ngày Chủ nhật yên tĩnh, anh ngồi ở
ngưỡng cửa, lưng dựa vào cánh cửa gỗ.
Đó
là một chỗ ngồi thuận tiện. Từ đây, anh có thể quan sát được từ nhà, vườn đến
con đường đất chạy từ dưới thung lủng vòng lên đồi rồi mất hút cuối tầm mắt.
Ngay trước mặt anh là con đường ô-tô vòng qua cổng nhà anh rồi chạy băng qua
làng của thổ dân. Phía trái, một con đường đất chạy dọc theo sườn đồi hướng về
ga xe lửa. Đúng là chỗ ngồi tuyệt vời để mơ mộng và nhìn ngắm tất cả những gì
diễn ra trong thung lũng mà không cần đi đâu.
Một
phụ nữ đi bộ lên đến đỉnh dốc của con đường đất, lưng địu một đứa bé. Đầu đứa
bé tựa lên vai chị, mắt nhìn chằm chằm vào Solomon. Anh vẩy tay và đứa bé cười
giòn, ngọ nguậy trông có vẻ khoái chí. Người phụ nữ quay lại nhìn Solomon không
cười nhưng có vẻ thân thiện vì anh đã làm con chị ta vui. Solomon nhận ra chị
này không phải là người xa lạ mà khá nổi tiếng vì chị chưa cho mọi người biết
tên cha đứa bé là ai. Mặc dù từng nghe người ta đàm tiếu về đức hạnh của chị
nhưng ngay lúc này, Solomon cảm thấy chị là người tốt vì chị chẳng làm duyên
làm dáng gì mà chỉ nghĩ đến đứa bé trên lưng.
Nếu
mình lấy chị ta và có con thì chị đã không ở trong hoàn cảnh này. Nhưng nếu
mình lấy chị ta mà chị ta đã… thì xem như đời mình tiêu.
Solomon
đổi thế ngồi cho dễ chịu hơn và dùng ngón chân này gải mắt cá nhân kia.
Đàn
ông cần đàn bà. Không đàn bà thì mình cũng như cây dừa cái pawpaw không trái đứng
trong góc sân kia. Bóng nó mát nhưng chẳng có trái trăng gì vì không có cây đực
nào gần nó, do đó, nó cũng chỉ một nửa cây, cũng như mình chỉ là một nửa nếu
không có đàn bà.
Anh
nhìn cái cây cô đơn và thương hại nó. Cây ơi, tao sẽ đề nghị ông Peterson trồng
thêm một cây đực trong sân này. Ông ta là người da trắng, chẳng quê hương gì ở
đây, nên ông ta chẳng hiểu gì về mày hết. Được rồi, tao sẽ giúp mày, cây nhé.
Nếu
mình cưới nàng và đưa nàng về làng mình sinh sống, có lẽ không còn ai quyến rủ
nàng bằng vòng đeo tay?
Nhưng
Solomon không thể sống ở làng mình vì cha anh không đủ gia súc để cung cấp cho
ba người con trai, đất thì quá cằn cỗi. Trong khu bảo tồn cũng không có việc.
Nhưng không sao. Nàng không phải là hạng đàn bà chỉ biết ngồi ở cửa lều giả
ngô. Nàng cũng không phải là hạng đàn bà thành phố phơi tấm lưng trần, vừa đi vừa
lắc mông và mắt nhìn khêu gợi. Nàng không phải là hạng đàn bà như thế.
Anh
ngồi vậy ở ngưỡng cửa trong khi mặt trời lên cao, chiếu sáng mái nhà. Anh suy
nghĩ mông lung nhưng rồi ý nghĩ lại quay về nàng, làm sao cho nàng hài lòng, cả
tính gian dối bướng bỉnh của nàng nữa. Và cơn giận đang ngọ nguậy trong anh như
một con rắn đang cuộn mình chờ mồi.
Vào
lúc mười giờ sáng, Peterson và vợ leo lên ô-tô, vui vẻ đóng cửa và chạy về hướng
nhà thờ. Solomon nhìn đám bụi hạ dần xuống mặt đường. Anh nghĩ về những người
da trắng. Họ biết sản xuất ra ô-tô và nhiều thứ khác và luôn luôn bận rộn nhưng
họ không thể giúp giải quyết chuyện của anh.
Ông
Gibson, chủ ngôi nhà phía trước nhà ông Peterson, có cô vợ tóc vàng xinh đẹp.
Được một thời gian thì bà vợ tóc vàng của ông không ở nhà một mình vào buổi chiều.
Đúng vậy, bà không ở nhà một mình. Một người đàn ông cao to với tiếng cười sang
sảng thường đến với bà ta. Một hôm ông Gibson về nhà sớm và thấy vợ mình và thằng
cha cao to kia xoắn với nhau. Người đàn ông kia bỏ đi. Có tiếng ồn ào, xủng xoảng
trong nhà và tiếng cười của người đàn bà. Sau đó, người vợ tóc vàng ra đi cùng
với thằng cha cao to. Gibson chẳng ngăn cản cũng chẳng đánh đập gì bà vợ. Sau
đó, ông ở nhà một mình, luôn cặp nách chai rượu, và dần dần mất trí khôn. Khi
thì khóc lóc, than thân trách phận, khi thì đi đứng liêu xiêu, khi thì la mắng
đầy tớ, và mắng cả Solomon, nhưng họ đều tha thứ cho ông vì ông cư xử như một đứa
trẻ. Ông ta chẳng còn là đấng nam nhi nữa vì đã đánh mất bản lĩnh của mình.
Solomon chợt nghĩ rằng một thằng đàn ông bò ra từ lều đất nhưng vẫn có thể đứng
cao hơn kẻ khác bước ra từ nhà cao cửa rộng.
Ta
sẽ không giống ông Gipson, sẽ không bao giờ giống ông ta.
Mặt
trời bây giờ đã lên cao. Solomon núp vào cánh cửa cho đỡ nắng. Anh cảm thấy
nóng và khát, nhưng phải tuân lệnh lão thầy mo, mặc dù thật lòng chẳng muốn.
Đáng
lẽ lão ta nên cho mình biết tên con linh cẩu đó, Solomon nghĩ. Có lẽ lão ta
không biết. Có lẽ bùa lão hết thiêng rồi chăng? Nhưng năm ngoái có một phụ nữ
chọc lão giận. Thế rồi chị ta chết lúc sinh nở. Một người đàn ông cãi lại lão,
rồi thằng con trai ngốc nghếch của ông ta bơi ra khỏi vùng an toàn ở bãi biển
Durban và bị cá mập tấn công. Đúng là lão thầy mo có bùa phép. Mình phải đợi.
Nghĩ
thế và anh ngồi đợi trong khi mặt trời đang từ từ chuyển dần về phía tây, đến
khi bóng căn lều đổ dài trước mặt anh, nhọn như một mũi dao.
Cái
bóng làm Solomon liên tưởng đến một con dao để giết địch thủ của anh - con linh
cẩu sẽ bò vào đêm nay.
Solomon
vói tay ra sau sánh cửa, cầm cái rựa và hòn đá mài lên. Ngồi xổm trước cửa, anh
bắt đầu mài rựa vốn đã bén như dao cạo. Anh mài chậm và đúng cách, mắt lim dim
như người đang mơ hay đang nuôi cái sự chết chóc trong đầu.
Chỗ
Solomon ngồi là một chỗ tốt vì anh có thể thấy mọi thứ diễn ra trên đường từ dưới
dốc lên đỉnh đồi và bất cứ ai đang đi từ dưới dốc lên đỉnh đồi đều thấy anh.
Có
tiềng huýt sáo từ dưới thung lủng nghe tựa như tiếng gió thổi qua ruộng bắp.
Solomon tiếp tục mài rựa.
Vào
lúc cuối chiều, một người bước ngập ngừng trên đường ô-tô và đến đứng trước mặt
Solomon. Anh ta đứng như thế chừng một phút, đến khi Solomon trở về thực tại.
“Chào
bạn Jonah,” Solomon nói khẽ.
Cảm
thấy nhẹ nhỏm, Jonah ngồi xổm bên cạnh Solomon đang tiếp tục mài rựa.
“Solomon
này, tao biết mày đang nghĩ gì.”
Solomon
không trả lời. Jonah và anh là bạn cùng làng cho đến khi Solomon vào tìm việc
trong thành phố. Khi Jonah lên phố, Solomon đã kiếm cho bạn một chân làm vườn,
nhưng Jonah chẳng đeo đuổi lâu. Jonah kiếm việc khác rồi lại bỏ. Nhiều lần như
thế. Anh ta rất khoái loại bia nội địa và tiếng cười của phụ nữ, và làm đến khi
kiếm đủ tiền để chơi bời là bỏ việc. Khi hết tiền lại kiếm việc làm. Càng ngày
việc càng khó kiếm và lương càng ít.
“Solomon
này,” Jonah nói. “Tao không khuyên mày đừng làm chuyện này. Mày muốn làm gì tùy
mày. Mày muốn giết thằng kia để nó không còn tán tỉnh con bồ mày, nhưng rồi mày
cũng chẳng còn sống để yêu đương nó vì cảnh sát sẽ treo cổ mày.”
Solomon
không tỏ vẻ mình đang nghe. Jonah tiếp tục nói nhỏ nhẹ.
“Solomon
này, chẳng hay ho gì để một thằng đàn ông phải tìm đến cái chết.”
Solomon
ngừng mài để thở, dường như để công nhận điều Jonah nói là đúng. Anh nghĩ rằng
một thằng đàn ông để cho sự việc dẫn đến phải chịu tội treo cổ thì chẳng còn
chi là phẩm giá bởi đó là cái chết nhục nhã trong đống bùn nhơ do chính mình tạo
ra. Và anh thấy trời đã bắt đầu chạng vạng và phía bên kia thung lũng, đàn chim
sáo đang bay lượn nhào lộn theo đội hình.
Jonah
kề tai anh nói:
“Hãy
suy nghĩ cho kỹ, bạn ơi! Nếu mày giết người ta rồi lại bị giết, con bồ mày đâu
chịu cô đơn lâu dài, mà sẽ vào tay thằng khác. Thói đàn bà là thế.”
Solomon
chưa bao giờ nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra sau cái chết của tình địch và của cả
chính anh. Chuyện này chẳng làm anh nhụt chí. Nay thì anh thấy chuyện này là
chuyện vô ích vô tuồng, chẳng được cái tích sự gì. Anh lim dim chăm chú nhìn
đàn chim sáo đang bay lượn trên trời.
“Có
cách gì khác không?”
Vĩ
mãi mê xem đàn chim sáo nên Solomon không thấy bàn tay bạn mình đang run và lén
liếm môi trước khi trả lời.
“Tao
đã suy nghĩ kỹ khi tao thấy mày ngồi đây suốt ngày; nếu là mầy, tao sẽ…” Jonah
ngừng nói khi Solomon tỏ vẻ căng thẳng. Theo tín hiệu bí mật của con chim đầu
đàn, cả đàn chim sáo sà xuống vào một cây, để lại bầu trời trống rổng. Solomon
thở dài và bỏ rựa xuống. Lần đầu tiên anh chú ý người đang nói chuyện với mình.
“Mầy
sẽ làm gì?”
“Tao
sẽ nói với thằng kia rằng nếu mày muốn cô ta thì tao sẽ giao cho mày, tao không
cần cô ta nữa. Tao chán cô ta rồi. Tao sẽ mỉm cười với nó và nói tao chấm dứt với
cô ta rồi, mầy cứ chiếm cô ta đi. Thế là thằng cha kia sẽ thắc mắc không hiểu tại
sao mày bỏ con bồ mày dễ dàng như vậy. Nếu mày chán cô ta, có lẻ cô ta chẳng có
giá trị gì. Tự ái của thằng đàn ông không cho phép nó lấy cái thứ mà người ta bỏ
đi. Và rồi nó sẽ chán cô ta.”
Solomon
chăm chú nhìn cái cây nơi đàn sáo đã hạ cánh. Rồi anh trầm ngâm nhìn khắp
thung lủng một hồi lâu.
Rồi
đột nhiên anh đứng dậy và lẩm bẩm.
“Tao
sẽ làm thế.”
“Mầy
biết thằng kia ở đâu không?”
“Tao
sẽ đợi nó gần nhà cô ta.”
Solomon
không muốn cho bạn biết mình chưa biết tình địch là ai, và cũng không muốn hỏi.
Jonah
nhìn bạn và hiểu ý.
“Nó
sẽ sợ mà không đến. Để tao bảo nó. Tốt hơn là mầy đừng tiếp xúc với nó. Nên
dùng một người trung gian.”
“Tối
nay tao sẽ đợi”, Solomon quả quyết. “Nếu đến sáng mà nó không đến, mầy sẽ nói với
nó.”
“Được.”
Khi
Solomon ra khỏi nhà thì trời đã chạng vạng. Đêm Phi Châu xuống rất nhanh mà đường
đến nhà nàng thì xa. Màu đỏ của cây đổ quyên đã biến thành màu xám xịt rước khi
anh đến gần chỗ của nàng. Trăng thượng tuần chiếu xuống mặt đường thành những đốm
bạc.
Lều
của nàng nằm phía sau nhà của ông chủ. Solomon đi ngang qua cổng chính, vào cổng
vườn mía, đi len giữa những hàng mía cho đến khi trông thấy dưới ánh trăng màu
trắng mờ của bức tường. Đó là lều của nàng. Núp trong bóng bụi mía, không ai thấy
anh nhưng anh có thể thấy cái cửa chính của căn lều.
Và
thế là anh đợi. Quanh anh, đêm Phi Châu yên ắng. Thực ra thì chẳng yên lặng
hoàn toàn bởi âm thanh của hàng trăm loài côn trùng bé tí và loài săn côn trùng
không hề bé tí chút nào cứ vo ve suốt đêm.
Solomon
ngồi xổm, đầu cúi xuống, vừa đợi vừa ôn lại những điều anh dự định nói với thằng
cha mà anh chưa biết tên. Anh đợi. Xáo lui xáo tới những câu nói ây trong đầu
cho đến khi bầu trời phía đông hừng sáng, và thằng cha kia không đến, cũng chẳng
từ lều nàng đi ra.
“Để
cho chắc,” Solomon tự nhủ, “mình thử nhìn vào trong lều nàng xem sao.”
Anh
bước nhẹ đến bên cửa và gỏ. Có tiếng sột soạt bên trong rồi một giọng sợ hãi cất
lên.
“Ai
đó?”
“Solomon
đây. Đừng sợ. Mở cửa đi.”
Có
tiếng chân bước đến bên cửa, tiếng chốt cửa kêu cót két và cửa mở. Nàng đứng
đó, mỉm cười với anh nhưng ánh mắt toát lên vẻ sợ hãi.
“Em
đang đợi anh,” nàng nói, vẻ dụ dỗ của kẻ giả nhân giả nghĩa. Nàng sà vào anh,
hai tay quàng qua cổ.
Anh
gỡ tay nàng ra và nhẹ nhàng đẩy nàng ra. Lúc này, những câu nói suốt đêm anh đã
chuẩn bị dành cho thằng cha không đến đang nóng như hòn than trên đầu lưỡi và
làm anh ngạt thở.
“Này
cô em,” anh dõng dạc nói. “Tôi không cần cô nữa. Tôi chán cô rồi. Tìm một thằng
khác nếu cô cần. Thế là hết.”
Anh
không nhìn nàng lúc nói mà nhìn vào góc phòng. Trước đây, mỗi khi anh đến, cả
con tim và khối óc, cả cặp mắt và tâm hồn đều dành cho nàng. Nay lần đầu tiên
anh thấy mạng nhện treo lủng lẳng trên trần và nền nhà thì lắm thứ ngổn ngang,
không được quét dọn. Cái khăn quàng cổ màu sáng mà anh đã mua từ tiệm người Ấn
đang nằm một nửa trên giường, một nửa dính đất. Áo quần nàng không treo trên
móc dính tường hay xếp gọn gàng trong trong va-li dưới giường và vứt lung tung
trên nền nhà.
Có
lẽ đây là lần đầu anh thấy cảnh này. Có lẽ đó là một ngày vừa đói vừa khát, bị
dày vò bởi sự bất quyết, một đêm chờ đợi vô ích, Nhưng khi anh nói những lời đã
thuộc nằm lòng, những lời mà suốt đêm anh đã tôi luyện đã trở thành đanh thép để
sẵn sàng phát ngôn và chấp nhận – anh tin đó là những lời tất nhiên phải nói.
Thực tâm anh không muốn nàng nữa. Anh nhìn nàng, thử xem nàng có bùa ngãi gì mà
mê hoặc anh đến thế, và thấy nàng cũng chỉ là một phụ nữ từng sống trong làng,
sau đó lên thành phố sống khá lâu. “Thế là hết,” anh lặp lại nhẹ nhàng hơn. Lần
này anh nhìn vào mắt nàng. Rồi anh quay gót, sải bước theo luống mía một cách
quả quyết và đầy bản lĩnh. Anh nhìn bầu trời bình minh xanh lơ, những ngọn mía
sao mà non tơ đến thế và lòng chợt rộn ràng những khúc nhạc vui.
Người
phụ nữ vẫn đứng ở khung cửa, tay che miệng, mắt đăm nhìn theo lối anh đi.
Chiều
tối, nàng lại đứng đó, nhìn đăm đăm vào lối anh đi thì Jonah xuất hiện, mỉm cười,
lộ cái răng gảy.
“Anh
sẽ cho em biết anh thông minh thế nào,” Jonah vừa nói vừa cười. “Anh đã lừa được
thằng Solomon. Nó đã để lộ tâm địa của nó và không hề biết anh chính là thằng
mà hắn muốn tìm.” Hắn cười ha hả và chạm tay vào vai nàng nhưng nàng vẫn nhìn
chằm chặp vào lối đi.
“Đừng
sợ,” Jonah nói. “Solomon sẽ không bao giờ đến nữa. Anh quá thông minh và thế là
chúng ta đã loại được hắn.”
Hắn
lại chạm tay vào vai nàng, và nàng quay lại nhìn hắn, đôi mắt trống rỗng và giọng
nói khô khốc.
“Đi
đi ông ơi,” nàng nói. “Đi khuất mắt.”
“Cái
gì? Có chuyện gì nữa đây?”
“Solomon
không yêu tôi. Anh ấy chán tôi rồi.”
Jonah
cười ha hả. “Không phải đâu. Đó là do anh phỉnh hắn. Anh bảo hắn nói thế với thằng
kia.”
“Anh
ấy chán tôi.”
“Không
phải thế. Đây chỉ là trò đùa thông minh của anh.”
“Anh
ấy chán tôi,” nàng lặp lại. “Thế là hết. Tôi thấy điều đó trong mắt anh ấy.”
“Em
và anh đều đã muốn loại hắn,” Jonah chống chế.
“Nhưng
không phải bị bở rơi,” nàng than thở. “Thật quá kinh khủng khi bị bỏ rơi.”
Jonah
muốn lay người nàng.
“Hắn
ta chi giả vờ cho đỡ ngượng.”
Nhưng
nàng lắc đầu. “Không. Khi nói lần đầu thì anh ấy giả vờ, không nhìn tôi. Nhưng
khi anh nhìn tôi, tôi biết đó là sự thật. Tôi thấy điều đó trong mắt anh ấy.”
Jonah
lộ vẻ mất kiên nhẫn, nắm lấy vai nàng.
“Này
em ơi, đừng ngốc nữa.”
“Mắt
anh ấy là mắt của người xa lạ.”
Dù
cố gắng, cái bướng bỉnh của nàng khiến Jonah nao lòng và bắt đầu ngờ vực. Có lẽ hắn đã bỏ cô ta thật sao? Hắn chán cô ta thật sao? Vậy thì tại sao? Có lẽ cô ta
không đáng giá?… nhìn cô gái, Jonah phân vân tự hỏi.
Để
trấn an, hắn cầm tay nàng. Nhưng trời ơi, cái nghi ngờ trong lòng hắn biến hắn
thành một cậu bé chưa bao giờ biết phụ nữ là gì. Nhìn thấy thái độ đó của hắn,
nàng quay mặt và tiếng cười khô khốc của nàng đã đuổi hắn ra khỏi lều. Hắn theo
lối mà Solomon đã đi nhưng không kiêu hãnh và thoải mái như Solomon. Không thể
chịu được, hắn lấy tay bịt tai mình để khỏi nghe tiếng cười chế giễu kia. Hắn
ôm đầu bỏ chạy, tựa như cái đầu của con linh cẩu bỏ lại sau buổi tiệc của đàn
sư tử.
Như
con mồi bị săn đuổi, hắn chạy nháo nhào cho đến khi không còn thở được, chân
thì đau không nhấc nổi. Cuối cùng, hắn dừng lại vì đuối sức.
Hắn
nhìn quanh và hoảng sợ vì thấy mình đã chạy thẳng đến lều của Solomon. Solomon
nhìn hắn với vẻ thông cảm.
Jonah
cố gắng nói nhưng miệng khô cứng và không thốt nên lời.
Solomon
mỉm cười nhìn hắn, nụ cười dịu dàng không tả nổi. Anh đội cái mũ rơm mới, màu
vàng của nắng, vành rộng và dây màu sáng. Ngồi trên ngưỡng cửa, anh ôm cây đàn
ghi-ta mới cứng và gảy một khúc nhạc dịu êm.
Đó
là hình ảnh một người đàn ông đang sống hòa bình với thế giới.
“Mấy
năm nay, cuộc sống của mình khá bậy bạ”, anh nhẹ nhàng nhận xét, và không biết
anh đang nói với mình hay với con người hèn hạ đang đứng như trời trồng vì sợ
trong bóng râm của cây pawpaw không trái.
“Vâng.
Mình ngu quá. Mình dành tiền chỉ để mua quà cho gái, không mua gì cho mình để
vui chơi. Bạn có nghĩ đó là sai lầm không?”
Miệng
Jonah mấp máy nhiều đợt nhưng chẳng thốt nên lời.
“Vâng,”
Solomon tiếp tục nói như đang mơ. “Một thằng đàn ông phải có thú tiêu khiển của
riêng mình. Hắn không nên quá nghiêm túc, quá trì độn. Có lẽ mình sẽ mua một
chiếc xe đạp. Cái tiệm người Ấn trên phố có một chiếc khá tốt nhưng không đắt lắm.
Có một chiếc xe đạp cũng thú vị lắm chứ.”
Solomon
nhìn Jonah và ngừng đánh đàn, do đó, tiếng anh nói vang lên trong yên lặng, rõ
ràng như hòn cuội ném xuống giếng.
“Mày
sợ cái gì? Trở lại với cô ta đi. Cô ta không còn gì với tao nữa.”
“Cô
ta không chứa chấp tao,” Jonah nói lí nhí, vẻ nhục nhã lộ trên gương mặt. “Cô ta muốn mày.”
Solomon
không trả lời nhưng lại bắt đầu chơi những giai điệu Phi Châu mạnh mẽ. Anh tựa
lưng vào tường để nắng chiếu lên chiếc mũ rơm và sưởi ấm mặt anh.
Và
rồi có tiếng bước chân nhẹ nhàng trên lối sỏi và người con gái ấy đến, không lắc
mông, không nhún nhảy nhưng điềm đạm, đầu cúi nhìn xuống đất. Không có vòng lấp
lánh trên tay, không có chuổi hạt cườm quanh cổ. Nàng chỉ trang điểm bằng chiếc
khăn quàng màu sáng, bây giờ đã giặt ủi nên nó trở nên rực rỡ.
Nàng
đi ngang qua Jonah đang đứng như dính chặt vào cây pawpaw và đến đứng trước mặt
Solomon.
“Solomon,
em vừa đến,” nàng nói thì thầm.
“Tôi
không quen cô,” Solomon nói.
Nàng
nhìn anh, nước mắt bắt đầu ứa từ cặp mắt to đen.
“Solomon,
Solomon,” nàng gọi khẻ.
“Này
cô kia, tôi không quen cô,” anh nhắc lại. “Chúng ta là người xa lạ, cô và tôi.
Xin hỏi cha mẹ cô là ai?”
Nàng
hiểu và mỉm cười e thẹn với vẻ hy vọng.
“Em
từ làng đến đây,” nàng bắt đầu nói và ngồi xuống sát bên chân của Solomon.
Nguyên
tác: A Man of Dignity, đăng trong tập truyện ngắn THE WORLD’S BEST CONTEMPORARY
SHORT STORIES, NXB Ace Book, Inc., New York, 1956.
Nguyễn
Khắc Phước dịch.
VÀI
DÒNG VỂ TÁC GIẢ
Cha
mẹ và bà con bên nội của Sheila Brown Sandray sống ở Nam Phi nhưng bà thì ở nhiều
nơi trên thế giới.
Bà
sinh tại York, Anh quốc vào năm 1924, trải qua tuổi ấu thơ tại Colombia, Tích
Lan. Học tại Queen Anne, Caversham, Anh quốc. Khi bố của bà đóng quân tại
Gibraltar (một vùng lãnh thổ thuộc Anh gần Tây Ban Nha), bà thường về đó nghỉ
hè mặc dù Tây Ban Nha đang có nội chiến. Khi Thế Chiến thứ hai bùng nổ, bà dời
đến sống ở Madeira, một quần đảo thuộc Bồ Đào Nha, tại đây, bà học ngôn ngữ với
một nhà phê bình sách người Đức sống tha hương. Trở lại nước Anh trong thời
gian chiến tranh, bà làm việc cho Cục Tình báo Chính trị thuộc Bộ Ngoại giao ba
năm và sau đó làm việc cho Liên Hiệp Quốc tại Vienna ba năm. Bà sống ở Canada một
thời gian rồi về sống với cha mẹ tại Nam Phi. Rồi bà lấy một nhạc sĩ người Mỹ
và sống tại Phoenix, bang Arizona với ba người con.